Tình trạng một số nơi có văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư dự án không xác định thời hạn hết hiệu lực, kéo dài (có trường hợp hàng chục năm) làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người sử dụng đất trong khu vực dự kiến thực hiện dự án như khó khăn trong việc thực hiện giao dịch đất đai, trong việc xây dựng, sửa chữa công trình trên đất.
Do đó, tại Điểm I, Khoản 2, Điều 2, Nghị quyết số 82/2019/NQ14 ngày 14/6/2019 của Quốc hội, quy định: “…Yêu cầu các địa phương thực hiện nghiêm việc rà soát và công bố công khai các dự án vi phạm trên trang thông tin điện tử của địa phương; kiên quyết thu hồi đất theo quy định của pháp luật đối với những dự án không đưa đất vào sử dụng, dự án triển khai chậm tiến độ, dự án đã bị chấm dứt chủ trương đầu tư, dự án sử dụng đất sai mục đích, vi phạm pháp luật về đất đai, quy hoạch đô thị, xây dựng và bảo vệ môi trường”.
Để giải quyết vấn đề này, theo Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai do Bộ TN&MT xây dựng có quy định về việc giải quyết việc sử dụng đất khi chấm dứt chủ trương đầu tư dự án theo quy định này.
Cụ thể, Dự thảo đưa ra phương án khi chấm dứt chủ trương đầu tư dự án thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất quy định tại Điều 61 và Điều 62, Luật Đất đai năm 2013 mà đã có văn bản thông báo thu hồi đất, quyết định thu hồi đất, quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và đã thực hiện chi trả bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì giao Tổ chức Phát triển quỹ đất quản lý diện tích đất thu hồi theo quy định.
Nếu đã thực hiện chi trả một phần tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì giao Tổ chức Phát triển quỹ đất hoặc Hội đồng Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tiếp tục thực hiện chi trả phần còn lại theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được phê duyệt theo quy định. Nhà nước hoàn trả cho chủ đầu tư số tiền đã ứng trước để bồi thường, hỗ trợ, tái định cư (nếu có) khi lựa chọn được chủ đầu tư khác.
Trường hợp đã có quyết định thu hồi đất, quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư mà chưa chi trả bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì giao Tổ chức Phát triển quỹ đất hoặc Hội đồng Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tiếp tục thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được phê duyệt theo quy định.
Trường hợp có văn bản thông báo thu hồi đất nhưng chưa có quyết định thu hồi đất, quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì văn bản thông báo thu hồi đất, tên và diện tích dự án trong Kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện được phê duyệt, văn bản chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, Nghị quyết của HĐND cấp tỉnh đối với dự án có sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng (nếu có) hết hiệu lực thực hiện kể từ ngày chấm dứt chủ trương đầu tư;
Bên cạnh đó, khi chấm dứt chủ trương đầu tư dự án có sử dụng đất do nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp để thực hiện dự án phi nông nghiệp mà chủ đầu tư chưa thực hiện nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định thì văn bản cho phép chủ đầu tư nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hết hiệu lực thực hiện kể từ ngày chấm dứt chủ trương đầu tư.
Ngoài ra, UBND cấp tỉnh có trách nhiệm căn cứ vào hiện trạng sử dụng đất và điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương để chỉ đạo việc tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt, trong đó, rà soát việc sử dụng đất tại vị trí đã có văn bản chấm dứt chủ trương đầu tư dự án quy định tại Khoản 6 Điều này để đảm bảo hiệu quả sử dụng đất, không ảnh hưởng đến môi trường đầu tư và không làm thất thu ngân sách.
BBT (Nguồn: Báo TN&MT)
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn