PV: Thưa ông, trong bối cảnh phải giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến các sự cố môi trường nghiêm trọng từ năm 2016, Tổng cục Môi trường đã từng bước nâng hiệu quả quản lý, kiểm soát từ đầu nguồn ô nhiễm như thế nào trong năm 2017?
Ông Nguyễn Văn Tài: Để quản lý môi trường có hiệu quả, năm 2017, Tổng cục Môi trường tiếp tục tập trung vào việc hoàn thiện thể chế chính sách. Quan trọng nhất đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường và luật khác có liên quan đến bảo vệ môi trường; tổ chức rà soát, đánh giá bước đầu việc triển khai thực hiện Luật Đa dạng sinh học năm 2008; tham gia sửa đổi, bổ sung nội dung về tội phạm môi trường trong Bộ luật Hình sự.
Đối với các văn bản dưới luật, Tổng cục đã triển khai xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường; rà soát toàn bộ hệ thống 44 quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường, thông qua ý kiến của các chuyên gia, đã xác định được 24 quy chuẩn cần sửa đổi, xây dựng và xin ý kiến các góp ý cho dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 109/2003/NĐ-CP về bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước. Xây dựng Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường quản lý, kiểm soát loài ngoại lai xâm hại...
PV: Từ sự cố môi trường biển năm 2016 tại các tỉnh miền Trung, chúng ta đã rút ra bài học lớn trong việc kiểm soát các nguồn ô nhiễm, đặc biệt là các dự án lớn, có nguy cơ ô nhiễm cao. Năm 2017, có thể xem là một năm có dấu ấn trong việc kiểm soát ô nhiễm được không, thưa ông?
Ông Nguyễn Văn Tài: Đúng là từ sau sự cố môi trường biển, lãnh đạo Bộ TN&MT cũng như Tổng cục Môi trường nhận thấy rõ hơn việc kiểm soát từ đầu nguồn quan trọng hơn bao giờ hết. Vì vậy, năm 2017, Tổng cục Môi trường đã đẩy mạnh công tác kiểm soát các dự án, nguồn thải lớn, có nguy cơ gây sự cố môi trường. Đến nay, Tổng cục Môi trường đã tổ chức khảo sát, đánh giá hiện trạng môi trường tại 6 khu kinh tế (KKT) ven biển phục vụ cho việc xây dựng hướng dẫn quy hoạch các công trình bảo vệ môi trường tại các KKT ven biển; kiểm tra thực tế tại 8 KCN để đánh giá việc đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường khi tiến hành điều chỉnh quy mô, quy hoạch, hoạt động trong KCN. Trong năm 2017, đã có 9 KCN hoàn thành việc đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung, nâng tỷ lệ các KCN có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt 78%. Triển khai hướng dẫn các địa phương thực hiện các giải pháp quản lý các nguồn nước thải lớn, quản lý ô nhiễm lưu vực sông; tuyên truyền, phổ biến về bảo vệ môi trường lưu vực sông....
Để có thể kiểm soát từ khi cơ sở sản xuất bắt đầu hình thành, Tổng cục Môi trường đã xây dựng hệ thống tiêu chí về môi trường làm cơ sở lựa chọn, sàng lọc loại hình sản xuất và công nghệ sản xuất trong thu hút đầu tư, xem xét, phê duyệt các dự án đầu tư, đảm bảo không thu hút công nghệ sản xuất lạc hậu vào Việt Nam; nghiên cứu, đề xuất triển khai nhiệm vụ nhằm hoàn thiện chính sách áp dụng các công cụ kinh tế để kiểm soát, xử lý ô nhiễm môi trường theo nguyên tắc thị trường.... Đặc biệt, thực hiện Chỉ thị số 25/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Tổng cục đã tập trung triển khai xây dựng Đề án về tăng cường kiểm soát đối với các cơ sở tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao.
PV: Được biết, đây là lần đầu tiên có một Đề án tăng cường kiểm soát về môi trường, ông có thể cho biết một số nội dung quy định trong Đề án này?
Ông Nguyễn Văn Tài: Việc xây dựng và thực hiện Đề án tăng cường kiểm soát đối với cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao góp phần chủ động phòng ngừa, giảm thiểu tối đa nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, sự cố môi trường trong tương lai. Đồng thời, thực hiện quyết tâm không chấp nhận việc thu hút đầu tư để ảnh hưởng đến môi trường, không đánh đổi phát triển kinh tế với hủy hoại môi trường mà Chính phủ đặt ra.
Theo dự thảo Đề án, đối tượng thuộc diện bị kiểm soát là các dự án, cơ sở sản xuất lớn thuộc loại hình sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao hoặc có công nghệ lạc hậu, lượng phát sinh chất thải lớn, vị trí đặt dự án nhạy cảm về môi trường. Cách thức kiểm soát là thông qua sự phối hợp của cơ quan quản lý môi trường và chủ dự án trong việc rà soát, đánh giá, xác định nguy cơ gây ô nhiễm và các yêu cầu cần thực hiện.
Bộ TN&MT đã dự kiến đưa 28 cơ sở công nghiệp vào tầm kiểm soát, trong đó, có các dự án: Formosa, Bauxite Tây Nguyên, Lee&Man Hậu Giang... Ngoại trừ dự án Khu Liên hợp sản xuất Gang Thép Formosa (Hà Tĩnh) đã phải chịu sự kiểm soát của Bộ TN&MT từ tháng 5/2017, các dự án còn lại là các dự án sẽ phải kiểm soát về môi trường kể từ năm 2018. Chịu sự kiểm soát chặt chẽ về môi trường nhưng không có nghĩa tất cả các dự án là có vấn đề về môi trường, hình thức kiểm soát còn đồng nghĩa với việc phòng ngừa rủi ro. Danh mục các loại hình sản xuất công nghiệp gây ô nhiễm môi trường gồm: Luyện gang, thép; nhiệt điện; khai thác, chế biến khoáng sản kim loại có sử dụng hóa chất độc hại; sản xuất giấy, bột giấy; nhuộm (vải, sợi); mạ; chế biến mủ cao su; chế biến tinh bột sắn; sản xuất xi măng; sản xuất hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hóa học (trừ loại hình phối trộn); lọc hóa dầu; thuộc da; chế biến thủy sản; chế biến mía đường; sản xuất pin, ắc quy; xử lý chất thải.
PV: Bên cạnh kiểm soát ô nhiễm, việc tiếp nhận, xử lý các điểm nóng về ô nhiễm tiếp tục được chú trọng. Vậy, kết quả nổi bật là gì thưa ông?
Ông Nguyễn Văn Tài: Bên cạnh việc đẩy mạnh thanh kiểm tra, năm 2017, Tổng cục Môi trường đã thiết lập đường dây nóng cấp Trung ương để tiếp nhận thông tin về vi phạm pháp luật môi trường. Tính đến hết ngày 15/12/2017, đường dây nóng của Tổng cục Môi trường đã tiếp nhận được tổng số 206 thông tin phản ánh, kiến nghị của người dân về ô nhiễm môi trường, trong đó, có 50 vụ việc đã được xử lý, còn lại 156 vụ việc hiện đang được các địa phương xử lý. Đường dây nóng đã thể hiện được ưu thế tiếp cận thông tin nhanh chóng, đa chiều. Bên cạnh đó, việc phối hợp giữa Bộ và các địa phương cũng được tăng cường.
Trong năm 2017, Tổng cục đã tập trung chỉ đạo, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tổ chức các đoàn thanh, kiểm tra, xử lý được hơn 20 vụ việc, điểm nóng về môi trường. Ngoài ra, cũng chủ động tổ chức thanh tra, kiểm tra các cơ sở tiềm ẩn các nguy cơ gây ô nhiễm môi trường; đã thành lập và duy trì thường xuyên Tổ giám sát quá trình vận hành thử nghiệm các công trình xử lý chất thải của Dự án Nhà máy Giấy Lee&Man Việt Nam, thanh tra, kiểm tra Dự án Nhà máy Bột – Giấy VNT19 tại Khu kinh tế Dung Quất, tỉnh Quảng Ngãi, Công ty Kim loại màu Nghệ Tĩnh huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An,…
Bên cạnh đó, Tổng cục thường xuyên kiểm tra, giám sát tình hình khắc phục các lỗi vi phạm và giám sát việc vận hành thử của Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (FHS)...
PV: Vấn đề môi trường xuất hiện ở mọi nơi, ảnh hưởng đến mọi ngành kinh tế của các địa phương. Để tăng cường hơn nữa hiệu quả công tác quản lý, ông có kiến nghị, đề xuất gì?
Ông Nguyễn Văn Tài: Để đáp ứng nhiệm vụ quản lý môi trường ngày càng nặng nề, phức tạp, các vấn đề môi trường gia tăng nhanh theo quy mô của nền kinh tế, tôi cho rằng ngành cần được đầu tư trên cả 3 mặt: Nhân lực; tài chính và thể chế.
Về thể chế, cần tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường từ Trung ương đến địa phương nhằm xác định đúng đối tượng quản lý ngành và lĩnh vực cụ thể, đảm bảo cơ cấu tổ chức của tổ chức bộ máy tinh gọn đảm bảo hiệu lực, hiệu quả, được phân cấp quản lý đầy đủ, rõ ràng, có tính ổn định lâu dài và có mối gắn kết chặt chẽ với các ngành, lĩnh vực khác.
Về nhân lực, cần quan tâm tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý môi trường, thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trên phạm vi toàn quốc. Tạo cơ chế chính sách và đầu tư cho đội ngũ cán bộ quản lý môi trường đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng; nâng cao năng lực và kỹ năng quản lý, đảm bảo khả năng ứng phó và kịp thời xử lý các tình huống xảy ra trong quản lý; tăng cường đầu tư các phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ công tác quản lý Nhà nước về BVMT, đấu tranh ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật về BVMT, phát huy tốt hơn nữa vai trò điều phối công tác BVMT từ Trung ương tới địa phương.
Về kinh phí, cần tăng nguồn lực, kinh phí thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ môi trường hàng. Có cơ chế tài chính đặc thù để giải quyết các sự vụ, sự cố môi trường phát sinh đang ngày càng diễn ra thường xuyên hơn cũng như cơ chế đột phá huy động nguồn lực từ xã hội, từ các thành phần kinh tế cho bảo vệ môi trường!
PV: Trân trọng cảm ơn ông!
Tác giả bài viết: BBT
Nguồn tin: Cổng TTĐT Bộ TN&MT
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn