Phóng viên: Thưa Bộ trưởng, trong phát biểu chỉ đạo đối với toàn Ngành, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã đánh giá trong bối cảnh còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng Ngành đã có những hướng đi đúng để đạt được những kết quả quan trọng đóng góp trực tiếp cho phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), tạo ra những gam màu tươi sáng hơn trong bức tranh về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường (BVMT) và ứng phó biến đổi khí hậu (BĐKH). Nhìn lại chặng đường đã qua, xin Bộ trưởng cho biết đâu là những gam màu sáng trong bức tranh chung đó?
Bộ trưởng Trần Hồng Hà: Chúng ta bước qua năm 2018 với niềm tin, phấn khởi bởi như Thủ tướng Chính phủ đã đánh giá những thành tựu to lớn mà đất nước đã đạt được có đóng góp lớn của Ngành. Kết quả này càng có ý nghĩa hơn nếu nhìn lại những thách thức mà toàn Ngành phải đối mặt ngay từ những ngày đầu nhiệm kỳ. Nhiều vấn đề tồn tại tích tụ từ trước đây như cơ chế chính sách, mô hình tăng trưởng dựa vào tài nguyên, nhân lực giá rẻ, thâm dụng vào môi trường, suy thoái, lãng phí trong sử dụng tài nguyên, khiếu kiện liên quan đến đất đai diễn biến phức tạp. Sự cố môi trường biển gây hậu quả nghiêm trọng tại 4 tỉnh miền Trung, đặt ra những thách thức to lớn về an ninh môi trường. Hạn hán diễn ra gay gắt tại các tỉnh Tây Nguyên, Nam Trung Bộ, xâm nhập mặn nghiêm trọng chưa từng có ở ĐBSCL.
Trong khó khăn đó, ngành TN&MT nhận được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát từ các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, trực tiếp là Thủ tướng, các Phó Thủ tướng; hỗ trợ tích cực của các Ban, Bộ, ngành, các cơ quan nghiên cứu; giám sát của Quốc hội; sự vào cuộc tích cực của các địa phương, sự chia sẻ, đồng hành của Nhân dân. Từ đó, toàn Ngành đã chủ động ứng phó, giải quyết một cách bài bản, khoa học với tinh thần trách nhiệm cao để từng bước chuyển hoá những thách thức thành cơ hội, tạo bước chuyển biến rõ nét, thực chất trên các lĩnh vực. Chủ động tham mưu để Đảng và Nhà nước ban hành những chủ trương, chính sách lớn mang tầm chiến lược dài hạn cho giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Trước hết, đã thực hiện tốt kiến tạo thể chế với cách làm mới là theo dõi, đánh giá việc thực thi, lắng nghe phản hồi từ thực tiễn để xây dựng trình ban hành một văn bản sửa nhiều văn bản tháo gỡ ngay những vướng mắc; sửa đổi, bổ sung kịp thời các kẽ hở, lỗ hổng, xóa bỏ rào cản, giải phóng các nguồn lực tài nguyên cho phát triển KT-XH; chuyển đổi phương thức quản lý môi trường theo hướng chủ động phòng ngừa, tăng cường kiểm soát, ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật về BVMT cho phát triển bền vững
Thiết lập hành lang pháp lý đồng bộ cho hoạt động đo đạc và bản đồ với việc trình Quốc hội thông qua Luật đo đạc và bản đồ. Đây là cơ sở quan trọng cho phát triển hạ tầng không gian địa lý quốc gia, nghiên cứu khoa học trái đất phục vụ phát triển KT-XH, quốc phòng, an ninh, giám sát tài nguyên, môi trường; phòng chống thiên tai, sẵn sàng cho ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư.
Hoàn thành tổng kết, sơ kết 3 nghị quyết quan trọng của Đảng bao trùm tất cả các lĩnh vực quản lý của Ngành; trên cơ sở đó Bộ Chính trị ban hành Kết luận về tăng cường quản lý đất đai, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam với nhiều chủ trương mới nhằm đưa nước ta trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn; kinh tế biển đóng góp quan trọng vào nền kinh tế đất nước.
Hai là, cải cách hành chính tiếp tục được đẩy mạnh với 3 trọng tâm là cải cách thể chế, tổ chức bộ máy và hiện đại hóa nền hành chính. Bãi bỏ, sửa đổi gần 63% điều kiện kinh doanh; cắt giảm, đơn giản hóa 51% TTHC kiểm tra chuyên ngành. Các chỉ số đánh giá CCHC, đo lường mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp như PAPI, PA Index, SIPAS, chỉ số ứng dụng công nghệ thông tin tăng đều qua các năm. Chỉ số Đăng ký quyền sử dụng, quyền sở hữu tài sản xếp hạng 60 trong 190 nước được tổ chức quốc tế đánh giá. Tổ chức bộ máy BVMT được kiện toàn, tinh giản đầu mối, giảm chồng chéo, rõ trách nhiệm, nâng cao hiệu quả.
Ba là, công tác thanh tra, kiểm tra đã được triển khai có trọng tâm, trọng điểm giải quyết những vấn đề bức xúc từ thực tiễn. Từ năm 2016-2018, toàn Ngành đã tiến hành hơn 7.000 cuộc thanh tra, kiểm tra, qua đó kiến nghị thu hồi gần 13 nghìn ha đất vi phạm, phạt vi phạm hành chính 344 tỷ đồng. Nhiều vụ việc phức tạp kéo dài nhiều thời kỳ đã qua nhiều cấp giải quyết đang được tập trung xử lý dứt điểm.
Bốn là, các nguồn tài nguyên đã được phát huy trở thành thành nguồn lực quan trọng đóng góp cho phát triển đất nước, tăng nguồn thu cho ngân sách.
Tình trạng lãng phí đất đai đang từng bước được khắc phục với hơn 1.500 dự án, gần 30 nghìn ha đất được xử lý, thu hồi hoặc hủy bỏ chủ trương đầu tư; đã cơ bản hoàn thành sắp xếp nâng cao hiệu quả sử dụng các công ty nông, lâm nghiệp và phê duyệt điều chỉnh QHSDĐ cấp tỉnh. Cơ cấu sử dụng đất được chuyển dịch hợp lý nhằm giải quyết nhu cầu nhà ở, sản xuất kinh doanh, xây dựng kết cấu hạ tầng; hoàn thành việc cấp GCN đối với 97,2% diện tích cần cấp. Hiệu quả sử dụng đất được nâng cao, nguồn lực đất đai được phát huy cho phát triển, đóng góp 12% thu ngân sách nội địa.
Tài nguyên nước đang được quản lý, sử dụng phục vụ đa mục tiêu; chủ trương kinh tế hóa đã thúc đẩy sử dụng nước tiết kiệm, đóng góp cho ngân sách với tiền cấp quyền khai thác đã được phê duyệt đạt 7 nghìn tỷ đồng, năm 2018 thu hơn 850 tỷ đồng. Chủ động thúc đẩy các giải pháp trong chia sẻ nguồn nước xuyên biên giới, đảm bảo lợi ích của các quốc gia hạ nguồn gắn với các mục tiêu phát triển bền vững.
Tiềm năng khoáng sản từng bước được chuyển hoá thành các nguồn lực, giá trị địa chất đặc trưng đã được phát hiện và ghi danh trên bản đồ địa chất toàn cầu như Công viên địa chất non nước Cao Bằng. Các nghiên cứu về tai biến địa chất đã dự báo các nguy cơ sụt lún, sạt lở, phục vụ quy hoạch phát triển KT-XH, phát triển không gian ngầm. Tình trạng khai thác trái phép cát, sỏi lòng sông đã từng bước được ngăn chặn.
Tiềm năng, lợi thế của biển ngày càng được phát huy. Các địa phương có biển đã trở thành khu vực phát triển năng động, thu hút mạnh các nguồn vốn đầu tư, đóng góp trên 60% GDP cả nước. Công tác nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản được thực hiện tích cực.
Năm là, phương thức quản lý môi trường được đổi mới, chủ động kiểm soát, phòng ngừa ô nhiễm, đảm bảo các dự án lớn tiềm ẩn nguy cơ cao được kiểm soát chặt chẽ, hoạt động an toàn, đóng góp cho tăng trưởng. Các chỉ số về môi trường như tỷ lệ KCN, KCX đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung, tỷ lệ chất thải rắn, nước thải sinh hoạt được thu gom, xử lý có sự chuyển biến tích cực. Nhiều địa phương đã triển khai các mô hình tái chế rác thải sinh hoạt kết hợp thu hồi năng lượng.
Sáu là, việc dự báo chính xác các cơn bão và tăng hạn dự báo, cảnh báo mưa lớn, lũ góp phần giảm thiệt hại so với năm 2017. Đã dự báo sớm các xu thế thời tiết để các Bộ, ngành, địa phương chủ động trong kế hoạch sản xuất, kinh doanh. Chủ động đề xuất các quyết sách có tính hệ thống, chiến lược về ứng phó với BĐKH với cách tiếp cận mới, tư duy mới và mô hình mới.
Bảy là, chuẩn bị các điều kiện về hạ tầng như cơ sở dữ liệu đất đai, số hoá hệ thống thông tin địa lý, siêu dữ liệu viễn thám, định vị vệ tinh trên toàn lãnh thổ Việt Nam để sẵn sàng ứng dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 vào phát triển KT-XH của đất nước.
Tám là, chủ động hội nhập, hợp tác quốc tế, đóng góp các sáng kiến quy mô toàn cầu, khu vực về giải quyết ô nhiễm rác thải nhựa đại dương, ô nhiễm môi trường xuyên biên giới, ứng phó với BĐKH, chia sẻ tài nguyên nước thông qua các cơ chế hợp tác G7, ASEAN, Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Uỷ hội sông Mê Công quốc tế. Tổ chức thành công Kỳ họp lần thứ 6 Đại hội đồng GEF, sự kiện môi trường lớn có quy mô toàn cầu.
Đặc biệt, tôi rất vui mừng trước sự quan tâm, vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự chủ động trong thực hiện trách nhiệm của các cơ quan tài nguyên và môi trường ở địa phương. Với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và thể chế, chính sách đồng bộ, phù hợp với thực tiễn, yêu cầu phát triển chúng ta tự tin bước vào năm 2019 với niền tin, khí thế mới, khát vọng vươn lên tầm cao mới cùng cả nước bứt phá như mục tiêu đồng chí Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã giao và Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đặt quyết tâm.
Phóng viên: Ngay ngày đầu tiên của năm mới, Chính phủ ban hành Nghị quyết 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển KT-XH và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2019. Xin Bộ trưởng cho biết khái quát về những nhiệm vụ trọng tâm mà ngành tài nguyên và môi trường đặt ra trong năm 2019?
Bộ trưởng Trần Hồng Hà: Ngay sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP và Nghị quyết số 02/NQ-CP, Bộ TN&MT cũng đã ban hành ngay Chương trình, Kế hoạch hành động của Ngành để thực hiện hai Nghị quyết này; đồng thời sẽ cập nhật bổ sung các nhiệm vụ, giải pháp mà Thủ tướng Chính phủ giao tại Hội nghị tổng kết Ngành.
Trước hết phải làm tốt vai trò kiến tạo thông qua thể, chính sách, pháp luật; tập trung sửa đổi Luật BVMT, ban hành các chính sách khuyến khích đầu tư vào môi trường; hoàn thiện hệ thống quy chuẩn kỹ thuật môi trường trong điều kiện hội nhập quốc tế. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, xây dựng trình ban hành quy định về khung giá đất để theo kịp biến động của giá đất thị trường.
Thứ hai, đẩy nhanh tiến độ thực hiện việc xây dựng hạ tầng thông tin phục vụ quản lý thông minh dựa trên nền tảng ứng dụng thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0. Xây dựng dữ liệu không gian (NSDI), cung cấp các dịch vụ vệ tinh, kết nối vạn vật sẵn sàng cho ứng dụng trí tuệ nhân tạo, xây dựng đô thị thông minh, tự động hoá trong các hoạt động vận tải, giám sát các hoạt động đánh bắt thuỷ, hải sản và phục vụ các mục đích phát triển KT-XH. Xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai, nghiên cứu lập, quản lý quy hoạch theo không gian bao gồm cả không gian ngầm và trên không. Ứng dụng công nghệ tự động trong quan trắc, giám sát tài nguyên, quan trắc môi trường, KTTV, giám sát BĐKH. Quản lý môi trường trên nền tảng internet vạn vật. Nghiên cứu các nguồn năng lượng mới như khí đá phiến, khí hóa than, năng lượng biển,... Ứng dụng công nghệ viễn thám trong điều tra cơ bản về tài nguyên, giám sát lãnh thổ, biển, hải đảo; quản lý, giám sát môi trường, nguồn nước xuyên biên giới, biến động diện tích đất rừng, các khu vực có nguy cơ sạt lở. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin phấn đấu đưa ngành TN&MT là một trong những ngọn cờ đầu về Chính phủ điện tử.
Ba là, nâng cao chỉ số tiếp cận, sử dụng bền vững, phát huy hiệu quả các nguồn lực tài nguyên. Nâng cao chỉ số tiếp cận đất đai, đổi mới công tác định giá đất chống thất thoát, lãng phí; xây dựng, trình và triển khai thí điểm một số cơ chế chính sách mang tính đột phá trong quản lý đất đai về kinh tế đất, định giá đất, quy hoạch sử dụng đất, tiếp cận đất đai, tích tụ, tập trung đất đai cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Kết nối liên thông TTHC về đất đai với cơ quan thuế trên toàn quốc. Tăng cường tạo quỹ đất sạch để đấu giá, thực hiện thuê đất đối với các đơn vị sự nghiệp tự chủ về tài chính. Triển khai công tác kiểm kê đất đai, quỹ đất công ích; tập trung xử lý các dự án chậm đưa đất vào sử dụng, giải quyết vấn đề đất đai của nông, lâm trường. Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong cung cấp các dịch vụ công cho người dân và doanh nghiệp.
Kiểm kê, đánh giá nhu cầu sử dụng nước, lập quy hoạch tài nguyên nước quốc gia. Nghiên cứu khả năng trữ nước thông qua các giải pháp phi công trình dựa vào xu thế tự nhiên. Triển khai các cơ chế điều phối, giám sát liên ngành với sự tham gia giám sát của cộng đồng. Chủ động tham mưu chủ trương, đối sách của Việt Nam trong các vấn đề xuyên biên giới.
Đẩy mạnh thực hiện đấu giá quyền khai thác khoáng sản. Nghiên cứu, điều tra tai biến địa chất phục vụ quy hoạch phát triển KT-XH, phòng tránh các nguy cơ sạt lở, sụt lún. Ngăn chặn khai thác cát sỏi, phòng chống sạt lở bờ sông, ven biển.
Huy động nguồn lực để triển khai Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam, đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản, ưu tiên đầu tư cho tăng cường năng lực nghiên cứu biển, phát triển đội ngũ nhà khoa học, chuyên gia chuyên sâu để vươn ra làm chủ biển khơi. Ngăn ngừa, giảm rác thải nhựa và kiểm soát ô nhiễm môi trường biển.
Bốn là, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác quản lý, BVMT. Tập trung giải quyết các vấn đề nóng về môi trường hiện nay như xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị, nông thôn; quản lý môi trường các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề; giải quyết vấn đề ô nhiễm ở các lưu vực sông; hoàn thiện và triển khai nhân rộng các mô hình phân loại rác thải tại nguồn, thu gom, tái chế, tái sử dụng và xử lý rác thải kết hợp thu hồi năng lượng, thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp môi trường, xây dựng nền kinh tế tuần hoàn, coi rác thải là tài nguyên.
Năm là, đổi mới công tác dự báo tiếp cận theo Tổ chức Khí tượng thế giới, đa dạng hoá sản phẩm khí tượng thuỷ văn phục vụ phát triển KT-XH, phòng chống thiên tai. Theo dõi chặt chẽ và dự báo kịp thời, sát diễn biến các hiện tượng khí hậu, thủy văn nguy hiểm.
Thúc đẩy kiện toàn, đổi mới cơ chế hoạt động của Uỷ ban quốc gia về BĐKH. Tập trung triển khai Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững vùng ĐBSCL thích ứng với BĐKH. Hoàn thiện cơ chế tài chính cho Quỹ phát triển vùng ĐBSCL trên cơ sở bổ sung chức năng, nhiệm vụ cho Quỹ BVMT Việt Nam; thực hiện một số dự án cấp bách về phòng chống sạt lở đê sông, đê biển và tạo sinh kế bền vững; triển khai chương trình đánh giá liên ngành để có giải pháp tổng thể công trình và phi công trình phòng chống sạt lở.
Sáu là, thanh tra, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm, giải quyết cơ bản các điểm nóng phát sinh về khiếu nại, tố cáo. Tăng cường thanh tra đột xuất để giải quyết tình trạng nhũng nhiễu, hành dân gây bức xúc trong dư luận. Đa dạng hoá các kênh thông tin để tiếp nhận phản ánh kiến nghị. Xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ công tác thanh tra chuyên ngành. Triển khai tổ công tác liên ngành để giải quyết các vụ việc phức tạp kéo dài, các điểm nóng phát sinh.
Cuối cùng vấn đề then chốt để đảm bảo thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ nêu trên đó là công tác cán bộ, nguồn lực để thực hiện và nhất là sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Cần tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương và các tổ chức chính trị xã hội. Tiếp tục chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ gắn với nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong toàn Ngành. Tôi cũng mong rằng trong quá trình chỉ đạo sắp xếp kiện toàn tổ chức theo các Nghị quyết của Trung ương, các Tỉnh uỷ, Thành uỷ, UBND các tỉnh, thành phố đánh giá đầy đủ để xây dựng tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ của Ngành để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Quan tâm, trích nguồn thu từ tài nguyên và môi trường để đầu tư trở lại cho Ngành nhằm nâng cao hiệu lực quản lý, hiệu quả sử dụng các nguồn tài nguyên, BVMT đóng trở lại cho phát triển đất nước và địa phương.
Phóng viên: Thưa Bộ trưởng, như ông vừa nói, năm 2019 là năm tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác quản lý, BVMT. Vậy đâu là vấn đề ngành TN&MT cần quan tâm triển khai để hiện thực hóa mục tiêu này trong năm 2019?
Bộ trưởng Trần Hồng Hà: Trước hết, cần tập trung vào việc sửa đổi Luật BVMT nhằm chuyển đổi căn bản phương thức quản lý môi trường lấy chủ động phòng ngừa ô nhiễm, xây dựng nền kinh tế tuần hoàn, coi rác thải là tài nguyên làm nguyên tắc chủ đạo; chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm đối với các dự án ứng dụng công nghệ cao, thân thiện môi trường, kiểm soát chặt chẽ các dự án tiềm ẩn nguy cơ cao gây ô nhiễm môi trường; thể chế hoá các cam kết quốc tế về môi trường của Việt Nam. Thúc đẩy các biện pháp kinh tế trong quản lý rác thải theo cơ chế thị trường với sự tham gia đồng hành của doanh nghiệp và người dân ngay từ khâu phân loại, thu gom; ứng dụng ứng dụng công nghệ đồng bộ từ tái chế, tái sử dụng rác thải kết hợp với thu hồi năng lượng, sản xuất phân bón. Thực hiện chính sách quản lý môi trường theo vòng đời sản phẩm mà ở đó nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm thu hồi và tiêu hủy sản phẩm cuối vòng đời. Phân định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý theo hướng tập trung, thống nhất một đầu mối trong quản lý rác thải.
Ban hành các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật về môi trường trong điều kiện hội nhập quốc tế bảo đảm lộ trình tiến tới tương đương các nước phát triển trong khu vực và thế giới nhằm thiết lập các hàng rào kỹ thuật để tạo những thay đổi đột phá trong công tác BVMT, đảm bảo sự chủ động trước các nguy cơ ô nhiễm, dịch chuyển các công nghệ lạc hậu vào Việt Nam. Đồng thời, để thu hút nguồn lực tư nhân vào giải quyết các vấn đề môi trường, thúc đẩy ngành công nghiệp môi trường, theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ sẽ phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành để xây dựng Nghị định, khuyến khích đầu tư vào môi trường và các quy định về phí, giá dịch vụ phù hợp với cơ chế thị trường.
Cùng với thể chế, sẽ tập trung triển khai lập các quy hoạch về BVMT theo đúng tinh thần của Luật quy hoạch như: Quy hoạch BVMT quốc gia; Quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học quốc gia, Quy hoạch phát triển mạng lưới quan trắc môi trường quốc gia làm cơ sở phân vùng, định hướng đầu tư, phát triển các ngành kinh tế, đảm bảo phù hợp với ngưỡng chịu tải của môi trường, bảo đảm giám sát chặt chẽ, cảnh báo chất lượng môi trường, đánh giá môi trường tổng hợp để xem xét cấp phép đầu tư.
Tập trung giải quyết các vấn đề nóng về môi trường hiện nay như quản lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị và nông thôn, các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề, rác thải nhựa. Rà soát yêu cầu chủ đầu tư các khu, cụm công nghiệp hệ thống xử lý nước thải tập trung, các đối tượng có quy mô xả thải lớn lắp đặt hệ thống thiết bị kiểm soát, giám sát hoạt động xả thải. Có các cơ chế, chính sách phù hợp nhằm điều chỉnh hành vi tiêu dùng thông qua các công cụ thuế, phí, tuyên truyền nâng cao nhận thức; tạo thuận lợi để người dân tiếp cận sản phẩm thay thế thân thiện môi trường.
Nâng cao chất lượng công tác thẩm định, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường. Rà soát, tiếp tục thành lập các Tổ giám sát về BVMT đối với các dự án, cơ sở sản xuất có nguy cơ gây sự cố, ô nhiễm môi trường cao, để các dự án, cơ sở này vận hành an toàn về môi trường, có đóng góp cho phát triển KT-XH. Xử lý nghiêm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; kiểm soát chặt chẽ các nguồn xả thải, và việc nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất.
Tăng cường BVMT các lưu vực sông, cải thiện, phục hồi môi trường, huy động có hiệu quả nguồn lực từ các doanh nghiệp đầu tư các trạm xử lý nước thải sinh hoạt trước khi đổ vào lưu vực theo cơ chế xã hội hóa. Tăng cường trách nhiệm của các địa phương có lưu lượng thải lớn ra lưu vực trong xử lý ô nhiễm môi trường.
Phân định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý, BVMT ở Trung ương và địa phương; có các cơ chế giải quyết các vấn đề có tính liên ngành, trách nhiệm cơ quan chịu trách nhiệm chính và các cơ quan trực tiếp quản lý đối với những vấn đề cụ thể.
Vấn đề cuối cùng, quan trọng nhất đó huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự hưởng ứng của Nhân dân, doanh nghiệp. Từng địa phương cần xác định phương châm BVMT chính là đầu tư cho sự phát phát triển, đặt quyết tâm cao và bắt tay ngay vào tuyền truyền, vận động, thực hiện việc phân loại rác thải tại nguồn để thu gom, tái chế, tái sử dụng và xử lý rác thải kết hợp thu hồi năng lượng; thúc đẩy nếp sống văn minh, hợp vệ sinh môi trường. Tăng cường công tác truyền thông, nâng cao nhận thức cộng đồng để mỗi doanh nghiệp, mỗi người dân thấy rõ BVMT không chỉ là trách nhiệm mà còn là quyền lợi để có môi trường sống tốt hơn cho chính mình và các thế hệ tương lai.
Phóng viên: Thưa Bộ trưởng một trong những chủ trương lớn có tầm chiến lược mà Ngành đã tham mưu cho Đảng đó là Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ làm gì để chủ trương này đi vào cuộc sống để sớm đưa nước ta trở thành quốc gia biển mạnh; kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển ước đạt 65 - 70% GDP cả nước?
Bộ trưởng Trần Hồng Hà: Trước hết, Bộ sẽ tập trung xây dựng Kế hoạch tổng thể, kế hoạch 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa XII (Nghị quyết số 36/NQ-TW ngày 22 tháng 10 năm 2018) về phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 để trình Chính phủ trong Quý I năm 2019; trong đó sẽ xác định các nhiệm vụ cụ thể, phân công trách nhiệm cho từng ngành, từng cấp có lộ trình để triển khai thực hiện.
Hai là, rà soát rà soát các chính sách, pháp luật có liên quan đến phát triển kinh tế biển để tiếp tục hoàn thiện tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho quản lý tổng hợp, thúc đẩy thu hút đầu tư phát triển kinh tế biển.
Ba là, khẩn trương lập Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ của quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 để kết nối các trung tâm kinh tế lớn của cả nước, các khu công nghiệp, khu đô thị, các vùng biển với các cảng biển dựa trên hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, kết nối chiến lược Bắc - Nam, Đông - Tây giữa các khu vực có biển không có biển, hình thành các trung tâm kinh tế biển để tạo động lực cho phát triển cả nước.
Bốn là, tăng cường công tác điều tra cơ bản tài nguyên và môi trường biển, tập trung đánh giá tiềm năng, giá trị các tài nguyên biển quan trọng ở một số vùng trọng điểm; kiểm soát chặt chẽ, ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển, nhất là chất thải nhựa đại dương; phát triển, hiện đại hoá hệ thống cảnh báo, dự báo thiên tai nhất là cảnh báo sóng thần, quan trắc môi trường biển, chủ động trong ứng phó với biển đổi khí hậu, nước biển dâng.
Năm là, tăng cường công tác nghiên cứu biển để vươn ra làm chủ biển khơi, đào tạo phát triển nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ chuyên gia nghiên cứu biển chuyên sâu, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, tích hợp, chia sẻ, khai thác, sử dụng hiệu quả; triển khai thực hiện Đề án xây dựng đội tàu nghiên cứu biển.
Sáu là, đẩy mạnh công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển và hải đảo; tích cực, chủ động tham gia các diễn đàn hợp tác về biển trong khu vực và thế giới để đảm bảo lợi ích quốc gia, dân tộc.
Bảy là, để tăng cường năng lực quản lý, xây dựng cơ chế điều phối liên ngành trong quản lý nhà nước về biển, đảo. Tập trung xây dựng Đề án kiện toàn cơ quan điều phối liên ngành chỉ đạo thống nhất việc thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển do Thủ tướng Chính phủ đứng đầu để chỉ đạo thống nhất việc thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển.
Phóng viên: Nhân dịp Xuân Kỷ Hợi 2019, Bộ trưởng có gửi gắm gì tới toàn thể cán bộ, công chức, viên chức, người lao động ngành tài nguyên và môi trường?
Bộ trưởng Trần Hồng Hà: Trước hết, tôi xin trân trọng cám ơn, biểu dương những nỗ lực của toàn Ngành trong những năm qua. Những ghi nhận, biểu dương của Thủ tướng Chính phủ đối với Ngành là kết quả từ sự nỗ lực phấn đấu, lao động, sáng tạo với tinh thần kỷ cương, liêm chính, hành động, hiệu quả của từng cán bộ, công chức, lãnh đạo trong toàn Ngành.
Tôi mong rằng với với khát vọng vươn lên và tinh thần kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, hiệu quả, cùng với nền tảng đã xây dựng trong những năm qua, ngành tài nguyên và môi trường sẽ tạo được sự “bứt phá” trong năm 2019.
Nhân dịp Xuân mới Kỷ Hợi, tôi gửi tới các cán cán bộ, công chức, viên chức, người lao động qua các thời kỳ cùng gia đình sức khỏe, hạnh phúc, thành công, năm mới thắng lợi mới. Chúc các độc giả của Báo Tài nguyên và Môi trường một năm an khang, thịnh vượng!
Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!
Việt Hùng - Khương Trung
nvv
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn