Xung quanh vấn đề này, Báo Tài nguyên và Môi trường đã có cuộc trao đổi, phỏng vấn Tiến sĩ Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường) - Cơ quan đầu mối thực hiện Công ước Vienna, Nghị định thư Montreal tại Việt Nam.
PV: Trong lĩnh vực biến đổi khí hậu và bảo vệ tầng ô-dôn, các chính sách về quản lý, loại trừ các chất suy giảm tầng ô-dôn được Việt Nam xây dựng và triển khai sớm hơn cả. Vậy đến nay, hệ thống chính sách lĩnh vực này đã đầy đủ và hoàn thiện chưa, thưa ông? Hành lang pháp lý về bảo vệ tầng ô dôn đã mang đến những kết quả như thế nào trong thực thi các hoạt động trong thực tế?
Ông Tăng Thế Cường: Kể từ khi tham gia Công ước Vienna về bảo vệ tầng ô-dôn và Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô-dôn năm 1994, Việt Nam đã nghiêm túc thực hiện cam kết về quản lý các chất làm suy giảm tầng ô-dôn (ODS), đã loại bỏ thành công các chất gây suy giảm tầng ô-dôn mạnh như CFC, halon, CTC, HCFC 141b nguyên chất và đưa vào quản lý các chất như Methyl Bromide, HCFC theo lộ trình cam kết của Việt Nam.
Ngày 30 tháng 12 năm 2011, Thông tư liên tịch số 47/2011/TTLT-BCT-BTNMT ngày 30 tháng 12 năm 2011 được Bộ Công Thương và Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành, quy định về hạn ngạch nhập khẩu cũng như thủ tục nhập khẩu của các chất HCFC theo quy định của Nghị định thư Montreal.
Gần đây nhất, Thông tư 05/2020/TT-BCT ngày 16 tháng 3 năm 2020 đã được Bộ Công Thương phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành nhằm sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư liên tịch số 47/2011/TTLT-BCT-BTNMT, trong đó có điều chỉnh hạn ngạch nhập khẩu các chất HCFC theo lộ trình quản lý, loại trừ của Việt Nam và bổ sung quy định về cấp phép nhập khẩu và xuất khẩu đối với các chất HFC. Đây là tiền đề quan trọng để Việt Nam xây dựng thông tin dữ liệu về hoạt động xuất, nhập khẩu, là cơ sở tính toán mức tiêu thụ cơ sở các chất HFC của Việt Nam trong các năm tới đây.
Ngoài Thông tư nêu trên, Việt Nam đã tăng cường kiểm soát, quản lý đối với các chất HFC, tiến tới thực hiện loại trừ dần các chất này theo lộ trình thực hiện Bản sửa đổi, bổ sung Kigali thuộc Nghị định thư Montreal mà Việt Nam đã tham gia từ tháng 9 năm 2019.
Bên cạnh đó, một trong những bước tiến mạnh mẽ trong công tác bảo vệ tầng ô-dôn là việc luật hóa các quy định về bảo vệ tầng ô-dôn. Cụ thể, các quy định về bảo vệ tầng ô-dôn được dự kiến đưa vào Luật bảo vệ môi trường sửa đổi 2020, và ban hành Nghị định cụ thể hóa các quy định của Luật quy định về lộ trình, phương thức giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và quản lý, loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-dôn, chất gây hiệu ứng nhà kính kiểm soát theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Có thể nói, Việt Nam đang nỗ lực hết mình để hoàn thiện hệ thống pháp lý liên quan đến việc quản lý, loại trừ các chất gây suy giảm tầng ô-dôn, chất gây hiệu ứng nhà kính bị kiểm soát góp phần đẩy nhanh quá trình phục hồi của tầng ô-dôn và giảm nhẹ biến đổi khí hậu toàn cầu.
PV: Tham gia Công ước Vienna và Nghị định thư Montreal, chúng ta bắt tay vào xây dựng các chính sách bảo vệ tầng ô-dôn trong bối cảnh nhận thức kiến thức, kinh nghiệm của Việt Nam chắc còn nhiều hạn chế. Vậy Việt Nam gặp những khó khăn gì trong quá trình thực thi các chính sách và cộng đồng quốc tế đã hỗ trợ như thế nào cho Việt Nam?
Ông Tăng Thế Cường: Công ước Vienna về bảo vệ tầng ô-dôn ra đời năm 1985, Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô-dôn ra đời năm 1987. Việt Nam chính thức phê duyệt và trở thành thành viên của Công ước Viên, Nghị định thư Montreal vào năm 1994. Việc nội luật hóa các quy định và yêu cầu quản lý mới ở thời điểm đó gây ra không ít khó khăn với các nhà quản lý. Tuy nhiên, Việt Nam đã nỗ lực tuân thủ chặt chẽ các hướng dẫn của Quỹ Đa phương thi hành Nghị định thư Montreal, tham khảo học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia khác, từng bước đưa vào quản lý các chất làm suy giảm tầng ô-dôn theo đúng lộ trình của Nghị định thư áp dụng đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam.
Trong quá trình thực thi Nghị định thư, Việt Nam đã nhận được những hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính từ Quỹ Đa phương để triển khai các hoạt động về tăng cường thể chế, chính sách, khuyến khích doanh nghiệp chuyển đổi công nghệ, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc bảo vệ tầng ô-dôn, tăng cường năng lực của cán bộ quản lý về ô-dôn nói chung và tăng cường sự phối hợp liên ngành trong quản lý. Một số kết quả được ghi nhận thông qua hoạt động hỗ trợ của quốc tế có thể kể đến như sau:
Năm 2005, Quỹ Đa phương thông qua Ngân hàng Thế giới đã hỗ trợ Việt Nam triển khai thực hiện Kế hoạch quốc gia của Việt Nam loại trừ hoàn toàn tiêu thụ các chất CFC và Halon, thực hiện trong giai đoạn 2005 - 2010. Kết quả là Việt Nam chính thức cấm nhập khẩu các chất CFC, Halon và CTC từ ngày 01 tháng 01 năm 2010.
Năm 2012, Việt Nam triển khai Kế hoạch quản lý loại trừ các chất HCFC của Việt Nam giai đoạn I từ năm 2012 đến 2017, kết quả Việt Nam đáp ứng nghĩa vụ loại trừ 10% mức tiêu thụ cơ sở các chất HCFC theo cam kết. Việt Nam chính thức loại trừ hoàn toàn HCFC 141b nguyên chất từ ngày 01 tháng 01 năm 2015.
Hiện nay, Việt Nam đang triển khai Kế hoạch quản lý loại trừ các chất HCFC của Việt Nam giai đoạn II từ năm 2018 đến 2023 với mục tiêu giảm 35% mức tiêu thụ cơ sở các chất HCFC và tiến tới giảm 67,5% mức tiêu thụ cơ sở các chất HCFC từ năm 2025 và về cơ bản sẽ chấm dứt nhập khẩu các chất HCFC vào năm 2030.
PV: Được biết, trong Hiệp định thương mại tự do Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) mới được thông qua có riêng một điều về bảo vệ tầng ô-dôn. Để triển khai Hiệp định này, chúng ta cần có những giải pháp nào trong xây dựng chính sách cũng như hỗ trợ doanh nghiệp, thưa ông?
Ông Tăng Thế Cường: Các yêu cầu, quy định của EVFTA có sự gắn kết chặt chẽ và hoàn toàn phù hợp với các cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường nói chung và Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô-dôn nói riêng. Đây cũng là các nội dung hiện đang được Việt Nam triển khai, có lộ trình và kế hoạch thực hiện cụ thể.
Để triển khai có hiệu quả các quy định trong EVFTA và các cam kết quốc tế, Bộ TN&MT sẽ chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan rà soát, ban hành điều chỉnh, bổ sung các văn bản, chính sách quản lý, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật có liên quan nhằm kiểm soát việc sản xuất, tiêu thụ và mua bán các chất bị kiểm soát phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế. Tiếp theo Kế hoạch quản lý loại trừ các chất HCFC giai đoạn I (2012-2017), Việt Nam hiện đang triển khai Kế hoạch quản lý loại trừ các chất HCFC giai đoạn II (2018-2023) với mục tiêu loại trừ tiêu thụ 1.000 tấn HCFC-22 và loại trừ hoàn toàn HCFC-141b trộn sẵn trong polyol trong sản xuất xốp cách nhiệt. Trong thời gian tới, Cục BĐKH sẽ tiếp tục trao đổi cùng với các đối tác quốc tế để phát triển kế hoạch quản lý loại trừ các chất HCFC giai đoạn III và nghiên cứu để tham mưu cho Bộ xây dựng kế hoạch quản lý, loại trừ các chất HFC theo lộ trình thực hiện Bản sửa đổi, bổ sung Kigali trong khuôn khổ Nghị định thư Montreal đã được Chính phủ phê duyệt.
Bên cạnh đó,việc tăng cường hợp tác trao đổi, phổ biến thông tin, chia sẻ kinh nghiệm đóng vai trò quan trọng. Với vai trò cơ quan tham mưu cho Lãnh đạo Bộ trong quản lý nhà nước về các chất làm suy giảm tầng ô-dôn, chất gây hiệu ứng nhà kính kiểm soát theo Nghị định thư Montreal, Cục Biến đổi khí hậu sẽ tăng cường trao đổi, chia sẻ thông tin, phổ biến kinh nghiệm về quản lý, cập nhật giải pháp khoa học và công nghệ tiên tiến giữa các quốc gia. Do vậy, việc triển khai Hiệp định với các nội dung đề ra sẽ không chỉ tăng cường mối quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa Việt Nam với các nước thuộc Liên minh châu Âu, mà còn giúp tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, khuyến khích các doanh nghiệp trong nước chuyển đổi công nghệ, nâng cao hiệu quả kinh tế và mở rộng thị trường, trong đó có những thị trường khó tính như châu Âu.
PV: Trân trọng cảm ơn ông./.
BBT (Nguồn: Cổng TTĐT Bộ TN&MT)
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn