Phát hiện mới về địa chất và khoáng sản tại Kon Plong
Liên đoàn Bản đồ Địa chất miền Nam (Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Bộ TN&MT) cho biết, kết quả đề án “Lập bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản, tỷ lệ 1:50.000 nhóm tờ Kon Plong (Kon Tum)” cho thấy, nhiều điểm khoáng sản được phát hiện tại địa phương này.
* Phát hiện mới 58 điểm khoáng sản Ông Đỗ Văn Lĩnh - Liên đoàn trưởng Liên đoàn Bản đồ Địa chất miền Nam cho biết: Kết quả “Lập bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản, tỷ lệ 1:50.000 nhóm tờ Kon Plong” đã làm sáng tỏ về đặc điểm địa chất khu vực nghiên cứu; đặc điểm thạch địa hóa, diện phân bố, quan hệ địa chất và khoáng sản liên quan của 27 thành tạo địa chất có mặt trên diện tích nhóm tờ, bao gồm 11 phân vị địa tầng; 3 phức hệ magma phun trào* Phát hiện mới 58 điểm khoáng sản Ông Đỗ Văn Lĩnh - Liên đoàn trưởng Liên đoàn Bản đồ Địa chất miền Nam cho biết: Kết quả “Lập bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản, tỷ lệ 1:50.000 nhóm tờ Kon Plong” đã làm sáng tỏ về đặc điểm địa chất khu vực nghiên cứu; đặc điểm thạch địa hóa, diện phân bố, quan hệ địa chất và khoáng sản liên quan của 27 thành tạo địa chất có mặt trên diện tích nhóm tờ, bao gồm 11 phân vị địa tầng; 3 phức hệ magma phun trào; 11 phức hệ magma xâm nhập; 2 phức hệ biến chất không phân tầng. Đặc biệt, trên diện tích nhóm tờ Kon Plong đã đăng ký 100 điểm khoáng sản, thuộc 22 loại hình khoáng sản gồm: 23 mỏ khoáng, 45 biểu hiện khoáng sản và 32 biểu hiện khoáng hóa; trong đó đề án phát hiện mới 58 điểm. Khoáng sản có triển vọng là đồng (mới phát hiện), urani (mới phát hiện), bauxit, dolomit và khoáng sản làm vật liệu xây dựng. Ngoài ra còn phát hiện mới nhiều biểu hiện khoáng sản và biểu hiện khoáng hóa của chì, sắt; các biểu hiện khoáng sản đá hoa, talc, felspat, kaolin. Theo ông Đỗ Văn Lĩnh, phát hiện nổi bật về khoáng sản có giá trị và ý nghĩa hơn cả là phát hiện đồng, urani khu vực Kon Rá. Kết quả điều tra, đánh giá đã xác định được tài nguyên cấp 333+334a là 75.932 tấn đồng kim loại (Cu) và một số biểu hiện quặng urani. Những phát hiện mới về khoáng sản này đã tạo ra tiền đề và dấu hiệu về điều tra, phát hiện các mỏ, biểu hiện khoáng sản và biểu hiện khoáng hóa không chỉ quặng đồng có giá trị mà nhiều khoáng sản kim loại khác trong các khu vực thuộc địa khối Kon Tum; đã khoanh định diện tích khoáng sản đồng ở khu vực Kon Rá chuyển giao cho giai đoạn thăm dò là 72,9ha. ; 11 phức hệ magma xâm nhập; 2 phức hệ biến chất không phân tầng. Đặc biệt, trên diện tích nhóm tờ Kon Plong đã đăng ký 100 điểm khoáng sản, thuộc 22 loại hình khoáng sản gồm: 23 mỏ khoáng, 45 biểu hiện khoáng sản và 32 biểu hiện khoáng hóa; trong đó đề án phát hiện mới 58 điểm. Khoáng sản có triển vọng là đồng (mới phát hiện), urani (mới phát hiện), bauxit, dolomit và khoáng sản làm vật liệu xây dựng. Ngoài ra còn phát hiện mới nhiều biểu hiện khoáng sản và biểu hiện khoáng hóa của chì, sắt; các biểu hiện khoáng sản đá hoa, talc, felspat, kaolin. Theo ông Đỗ Văn Lĩnh, phát hiện nổi bật về khoáng sản có giá trị và ý nghĩa hơn cả là phát hiện đồng, urani khu vực Kon Rá. Kết quả điều tra, đánh giá đã xác định được tài nguyên cấp 333+334a là 75.932 tấn đồng kim loại (Cu) và một số biểu hiện quặng urani. Những phát hiện mới về khoáng sản này đã tạo ra tiền đề và dấu hiệu về điều tra, phát hiện các mỏ, biểu hiện khoáng sản và biểu hiện khoáng hóa không chỉ quặng đồng có giá trị mà nhiều khoáng sản kim loại khác trong các khu vực thuộc địa khối Kon Tum; đã khoanh định diện tích khoáng sản đồng ở khu vực Kon Rá chuyển giao cho giai đoạn thăm dò là 72,9ha.
Đồng thời, Đề án cũng đã khoanh định 4 diện tích triển vọng khoáng sản dolomit là Kon Tu, Kon Go, Kon Pne, Đắk Pne, sơ bộ xác định tài nguyên cấp 333+334 khoảng 67,5 triệu tấn quặng dolomit. Tổng hợp kết quả điều tra cũng đã khoanh định được 2 diện tích triển vọng quặng bauxit với tài nguyên cấp 333+334 là 52 triệu tấn quặng tinh. Khoáng sản làm vật liệu xây dựng cũng khá phong phú về chủng loại, gồm đá xây dựng, đá ốp lát, sét gạch ngói, cát-cuội sỏi xây dựng, đây là cơ sở phục vụ cho quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản làm vật liệu xây dựng của các tỉnh Kon Tum và Gia Lai. “Đề án đã xác định được tài nguyên và khoanh định các diện tích có triển vọng khoáng sản để đề xuất cho công tác đánh giá, thăm dò tiếp theo, bao gồm 13 diện tích triển vọng đó là khoáng sản đồng, urani, nhôm, dolomit, basalt ốp lát”, ông Đỗ Văn Lĩnh nhấn mạnh. * Hơn chục năm nỗ lực hoàn thành đề án Để đạt được những kết quả nổi bật trên, Liên đoàn Bản đồ Địa chất Miền Nam đã vượt qua rất nhiều khó khăn. Theo ông Trần Duân - Chủ nhiệm đề án thuộc Liên đoàn Bản đồ Địa chất miền Nam, thời gian thi công đề án quá dài, từ năm 2007 đến năm 2020 nên nhân lực bị xáo trộn nhiều, cán bộ kỹ thuật tham gia thi công bị phân tán và nghỉ hưu theo chế độ; phải trải qua nhiều lần thay đổi Quy chế, Quy chuẩn đo vẽ lập bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản tỷ lệ 1:50.000; nhiều lần điều chỉnh đơn giá hết sức phức tạp theo điều chỉnh lương cơ bản; kinh phí cấp để thi công hàng năm hạn chế, thậm chí nhiều năm không cấp kinh phí để thi công đề án (2010-2013), việc này làm ảnh hưởng đến công ăn việc làm và tư tưởng của viên chức và người lao động của đề án. Không những thế, điều kiện địa hình trong diện tích đề án rất phức tạp, mức độ phân cắt mạnh, giao thông rất khó; điều kiện khí hậu không thuận lợi, thường bắt đầu có mưa từ đầu tháng 4 hàng năm, thi công trong mùa mưa, nên gặp nhiều khó khăn, vất vả trong thi công thực địa. Ngoài ra, phương tiện vận chuyển phục vụ thi công thực địa đề án đều thuộc loại lạc hậu, cũ và luôn hỏng hóc, gây không ít khó khăn trong việc vận chuyển thiết bị vật tư, máy móc con người, mẫu vật từ trong nội vùng nghiên cứu của nhóm tờ.
Hơn nữa, nhiều thủ tục qui định về việc vận chuyển, lưu cất giữ vật liệu nổ phục vụ cho công tác khai đào liên tục thay đổi..., ảnh hưởng rất nhiều đến tiến độ thi công và chất lượng thi công các công trình khai đào trong tầng đá, quặng có độ cứng lớn và ở độ sâu 5-8m. Để giải quyết những khó khăn trên, ông Đỗ Văn Lĩnh cho rằng, không chỉ đề án “Lập bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản, tỷ lệ 1:50.000 nhóm tờ Kon Plong” mà các đề án điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản thực hiện theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 49:2012/BTNMT về lập bản đồ địa chất khoáng sản tỷ lệ 1:50.000 phần đất liền; ngoài khối lượng thiết kế phục vụ công tác đo vẽ lập bản đồ và điều tra khoáng sản đối với các phương pháp truyền thống, cần bố trí thiết kế số chuyên đề cần thiết phải nghiên cứu chuyên sâu về địa chất, cấu tạo và sinh khoáng. Đặc biệt là khối lượng công tác Địa vật lý, khoan sâu lấy mẫu, phân tích các loại mẫu bằng cấc phương pháp hiện đại nhằm xác định chính xác thành phần vật chất của đá và quặng cũng như tuổi tuyệt đối, môi trường thành tạo chúng... Theo ông Trần Duân, một vấn đề quan trọng khác việc chi trả lương người lao động theo thâm thiên khiến không khuyến khích thu hút được các kỹ sư trẻ có năng lực yên tâm tư tưởng để công tác và cống hiến cho Ngành. Đây là một bất cập mà Đề án đang gặp phải trong phân phối thu nhập năm 2018, 2019 và năm 2020. Đề nghị cần được xem xét và sớm điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế.