Với mục tiêu nhằm đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ BVMT và mức độ hài lòng của người dân về chất lượng môi trường sống của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (địa phương), Bộ chỉ số được cấu trúc thành 02 nhóm, gồm: (i) Đánh giá kết quả thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ về BVMT (nhóm I); và (ii) Đánh giá mức độ hài lòng của người dân về chất lượng môi trường sống (nhóm II). Trong đó, nội dung nhóm I được cấu trúc thành 04 nhóm mục tiêu, 11 nhóm chính sách với 26 chỉ số thành phần; nội dung nhóm II gồm 04 mục tiêu với 01 chỉ số thành phần về mức mức độ hài lòng của người dân về chất lượng môi trường sống. Các chỉ số nhóm I do Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố Trực thuộc Trung ương tự tổ chức thu thập, tổng hợp, đánh giá theo hướng dẫn của Bộ TN&MT và chịu trách nhiệm về tính chính xác, đầy đủ của thông tin, số liệu; chỉ số nhóm II do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam tổ chức thực hiện thông qua Ủy ban Trung ương MTTQ các cấp theo phương thức điều tra xã hội học đối với toàn bộ 63 tỉnh/thành phố trên phạm vi cả nước.
Trên cơ sở kết quả tự đánh giá việc thực hiện Bộ chỉ số do các địa phương gửi về và tổng hợp kết quả điều tra xã hội học của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Bộ TN&MT đã tổ chức rà soát, thẩm tra kỹ lưỡng thông tin, số liệu, đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoàn thiện, bổ sung do đây là năm đầu tiên thực hiện việc đánh giá. Ngày 05 tháng 11 năm 2021, Bộ TN&MT đã tổ chức họp Hội đồng thẩm định kết quả thực hiện Bộ chỉ số của các địa phương với thành phần gồm có đại diện của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, đại diện tổ chức chính trị- xã hội, hội, hiệp hội, nhà khoa học, chuyên gia có liên quan.
Căn cứ kết quả thẩm định của Hội đồng, ngày 31 tháng 12 năm 2021, Bộ trưởng Bộ TN&MT đã phê duyệt kết quả thực hiện Bộ chỉ số đánh giá kết quả BVMT năm 2020 của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Theo đó, kết quả thực hiện Bộ chỉ số năm 2020 của các địa phương được phân loại theo 03 mức: tốt, khá và trung bình (xếp theo thứ tự Alphabet) như sau:
1. Mức tốt (05 địa phương): Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Đà Nẵng, Quảng Ninh, Trà Vinh. Đây là các địa phương đã hoàn thành nhiều chỉ tiêu về BVMT đề ra hoặc có kết quả thực hiện cao như: tỷ lệ các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường; tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý triệt để; tỷ lệ chất thải nguy hại, chất thải rắn sinh hoạt được xử lý đáp ứng yêu cầu BVMT;…đồng thời có tỷ lệ đánh giá của người dân về chất lượng môi trường sống trên địa bàn ở mức hài lòng cao.
2. Mức khá (34 địa phương): Bắc Kạn, Bắc Giang, Bình Định, Cần Thơ, Cao Bằng, Đắk Nông, Điện Biên, Đồng Nai, Đồng Tháp, Hà Giang, Hà Nam, Hà Tĩnh, Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Khánh Hoà, Kon Tum, Lâm Đồng, Lạng Sơn, Lào Cai, Long An, Ninh Thuận, Phú Thọ, Phú Yên, Quảng Bình, Quảng Nam, Sơn La, Tây Ninh, Thanh Hoá, Thừa Thiên Huế, Tiền Giang, Tp. Hồ Chí Minh, Tuyên Quang, Vĩnh Long.
3. Mức trung bình (24 địa phương): An Giang, Bạc Liêu, Bắc Ninh, Bến Tre, Bình Phước, Bình Thuận, Cà Mau, Đắk Lắk, Gia Lai, Hà Nội, Hậu Giang, Hoà Bình, Kiên Giang, Lai Châu, Nam Định, Nghệ An, Ninh Bình, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Sóc Trăng, Thái Bình, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Yên Bái. Các địa phương được xếp ở nhóm này chủ yếu do chưa hoàn thành nhiều chỉ tiêu về BVMT đề ra hoặc có kết quả thực hiện thấp như: tỷ lệ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phát sinh nước thải từ 50 m3/ngày trở lên có hệ thống xử lý nước thải đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường; tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được phân loại tại nguồn; tỷ lệ các khu công nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ lắp đặt hệ thống quan trắc nước thải, khí thải tự động, liên tục, truyền số liệu trực tiếp cho Sở TN&MT tỉnh/thành phố theo quy định của pháp luật; tỷ lệ đánh giá của người dân về chất lượng môi trường sống trên địa bàn ở mức hài lòng thấp…, trong đó có một số địa phương chưa có kết quả đánh giá một số chỉ số được quy định trong Bộ chỉ số do không tổ chức thực hiện thu thập, tổng hợp số liệu.
Căn cứ kết quả đánh giá, Bộ TN&MT đã đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức quán triệt, có giải pháp đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác BVMT, cải thiện kết quả thực hiện Bộ chỉ số đánh giá kết quả BVMT ở những năm tiếp theo.
Hiện nay, Bộ TN&MT đã có văn bản hướng dẫn các địa phương thực hiện đánh giá kết quả BVMT cho năm 2021 theo Bộ chỉ số đã ban hành; đồng thời đang tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện nội dung Bộ chỉ số theo các chế định mới của Luật BVMT 2020 để ban hành và áp dụng cho năm 2022.
BBT (Nguồn: Cổng TTĐT Bộ TN&MT)