Quản lý, khai thác hiệu quả nguồn nước dưới đất để phát triển bền vững
Ngày Nước thế giới năm nay có chủ đề “Nước ngầm - Biến thứ vô hình thành hữu hình”, chủ đề “Nước ngầm” của năm nay nhằm nhấn mạnh vai trò quan trọng của nước ngầm trong hệ thống nước và điều kiện vệ sinh, nông nghiệp, công nghiệp, hệ sinh thái và thích ứng với biến đổi khí hậu và đáp ứng nhu cầu của dân số ngày càng tăng. Nhân sự kiện Ngày Nước thế giới năm 2022, Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Nguyễn Minh Khuyến đã có cuộc trao đổi với phóng viên báo chí về chủ đề, các hoạt động hưởng ứng và công tác quản lý, khai thác hiệu quả nguồn nước ngầm để phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay.
PV:Thưa ông, Ngày Nước Thế giới năm 2022 có chủ đề là Groundwater - Nước ngầm, ông có thể cho biết cụ thể hơn ý nghĩa của chủ đề này? Phó Cục trưởng Nguyễn Minh Khuyến: Ngày Nước Thế giới - một sự kiện quốc tế được tổ chức thường niên kể từ khi Hội nghị thượng đỉnh Liên Hợp Quốc về Môi trường và Phát triển được tổ chức tại Rio de Janeiro từ ngày 3 đến 14 tháng 6 năm 1992. Tại đây, Liên Hợp Quốc đã quyết định lấy ngày 22 tháng 3 hàng năm là Ngày Nước Thế giới để truyền tải các thông điệp về ý nghĩa của nước, giải pháp tập trung giải quyết các vấn đề nóng liên quan đến tài nguyên nước mang tính toàn cầu. Đây là một sự kiện quốc tế được tổ chức nhằm thu hút sự chú ý của người dân trên khắp trái đất để thấy được tầm quan trọng của tài nguyên nước, đặc biệt là các nguồn nước ngọt và góp phần tăng cường quản lý bền vững nguồn tài nguyên nước quý giá. Mỗi năm Liên Hợp Quốc lựa chọn một chủ đề cụ thể cho Ngày Nước Thế giới để phản ánh những khía cạnh khác nhau về nước. Năm nay, Ngày Nước Thế giới 2022 có chủ đề là “Nước ngầm” (Groundwater) với mục đích nhằm thu hút sự chú ý đến nguồn tài nguyên nước tiềm ẩn luôn được coi trọng nhưng chưa được công nhận đầy đủ giá trị trong hoạch định chính sách phát triển bền vững, nhấn mạnh vai trò quan trọng của nước ngầm trong hệ thống nước và điều kiện vệ sinh, hoạt động nông nghiệp, công nghiệp, hệ sinh thái và thích ứng với biến đổi khí hậu; hướng đến kêu gọi sự quan tâm của cộng đồng cần có những hành động khai thác, bảo vệ và sử dụng bền vững nguồn nước ngầm, thích ứng với biến đổi khí hậu. Thông điệp bao trùm của chiến dịch là khám phá, bảo vệ và sử dụng bền vững nguồn nước ngầm sẽ là việc làm trọng tâm để tồn tại và thích ứng với biến đổi khí hậu và đáp ứng nhu cầu của dân số ngày càng tăng.
PV:Bộ TN&MT đã có những kế hoạch hưởng ứng Ngày Nước thế giới năm 2022 ra sao để tạo sự lan tỏa sâu rộng và nâng cao trách nhiệm, hiểu biết của người dân trong việc sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước, thưa ông? Phó Cục trưởng Nguyễn Minh Khuyến: Hưởng ứng chủ đề Ngày Nước thế giới năm nay và căn cứ điều kiện tình hình thực tế hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã đề nghị các Bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương; UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quan tâm, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các hoạt động thiết thực, hiệu quả, phù hợp chủ đề Ngày Nước thế giới, như sau:
- Treo pano, băng rôn, áp phích được làm từ các vật liệu thân thiện với môi trường tại các khu vực công cộng, đường phố, trụ sở cơ quan và các địa điểm thích hợp. Lựa chọn, sử dụng các khẩu hiệu tuyên truyền, truyền thông.
- Tổ chức các hội thảo, tọa đàm; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và các phương thức trực tuyến, phối hợp với các cơ quan thông tấn báo chí tăng thời lượng phát sóng các nội dung về giá trị của nước ngầm, thời tiết và khí hậu,… bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
- Đẩy mạnh huy động nguồn lực đầu tư, khởi công, xây dựng và bàn giao các công trình, dự án thuộc lĩnh vực tài nguyên nước, bảo vệ môi trường và thu hút các dự án xanh… nhằm phục vụ tốt hơn các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, góp phần nâng cao đời sống dân sinh.
- Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, dự án nhằm tăng cường bảo vệ, khai thác, sử dụng bền vững nguồn nước dưới đất: Tổ chức thực hiện quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước quốc gia, trong đó, quy hoạch khai thác hợp lý, điều chỉnh phương án khai thác nước dưới đất hiện tại cho phù hợp, đảm bảo tổng lượng khai thác không vượt quá trữ lượng của nước dưới đất, không vượt ngưỡng giới hạn khai thác an toàn.
- Đầu tư nâng cấp, hoàn thiện việc xây dựng, vận hành hệ thống giám sát hoạt động khai thác nước dưới đất để theo dõi, phát hiện các công trình bị suy giảm mực nước quá mức và có phương án xử lý kịp thời; nâng cấp, hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu về nước dưới đất.
- Nghiên cứu, áp dụng các giải pháp để tăng cường khả năng trữ nước ngọt, giảm dần việc khai thác nước dưới đất; nghiên cứu áp dụng các giải pháp lưu giữ nước mưa ở các khu đô thị, dân cư tập trung nhằm giảm bớt tình trạng ngập úng, đồng thời, bổ sung nhân tạo cho nước dưới đất.
- Phát động các phong trào trồng cây, trồng rừng, tích cực thực hiện Đề án trồng 1 tỷ cây xanh theo Quyết định số 524/QĐ-TTg ngày 1/4/2021 của Thủ tướng Chính phủ: trồng cây xanh chắn cát, tạo nguồn sinh thủy…; chống xói lở bờ biển; ngăn ngừa xâm nhập mặn.
- Tăng cường các giải pháp dựa vào thiên nhiên đối với các vấn đề toàn cầu về khí hậu, an ninh lương thực và nguồn nước, sinh kế người dân, quản lý hiệu quả các khu bảo tồn thiên nhiên. Phục hồi các hệ sinh thái bị suy thoái, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và đa dạng sinh học, bảo tồn hiệu quả các loài và nguồn gen, đặc biệt áp dụng các giải pháp dựa vào thiên nhiên để giảm nhẹ tác động từ sự phát triển kinh tế - xã hội tới các hệ sinh thái; thúc đẩy việc xây dựng các mô hình kinh tế sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên.
- Phát hiện, biểu dương, động viên và khen thưởng kịp thời các tổ chức, cá nhân có nhiều thành tích xuất sắc trong việc áp dụng các sáng kiến, giải pháp công nghệ để quản lý, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và thích ứng biến đổi khí hậu… PV:Ông đánh giá như thế nào về nguồn tài nước ngầm của Việt Nam? Phó Cục trưởng Nguyễn Minh Khuyến: Lãnh thổ Việt Nam được phân chia khoảng 28 đơn vị chứa nước dưới đất. Theo kết quả Dự án Biên hội, thành lập bản đồ tài nguyên nước dưới đất tỷ lệ 1: 200.000 (năm 2018) do Bộ Tài nguyên và Môi trường triển khai thực hiện, tổng trữ lượng tài nguyên nước dưới đất dự báo trên toàn lãnh thổ Việt Nam (chưa kể phần hải đảo) được đánh giá vào khoảng 189,3 triệu m3/ngày (nước nhạt) và khoảng 61,4 triệu m3/ngày (nước mặn) và thuộc loại lớn so với khu vực. Tuy nhiên khả năng khai thác lại phụ thuộc nhiều vào đặc điểm, điều kiện địa chất thủy văn của từng khu vực. Chỉ có các khu vực đồng bằng, đồng bằng ven biển và khu vực Tây Nguyên là có điều kiện thuận lợi để khai thác nước dưới đất tập trung, với quy mô lớn để phục vụ các nhu cầu sử dụng nước.
Theo thống kê sơ bộ, tổng lượng khai thác nước dưới đất trên toàn quốc ước tính khoảng 10,5 triệu m3/ngày đêm (chiếm khoảng 17,2% trữ lượng nước dưới đất có thể khai thác), trong đó có nhiều thành phố, đô thị lớn chủ yếu khai thác nguồn nước dưới đất như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Mỹ Tho (Tiền Giang), Vũng Tàu, Buôn Mê Thuột,… Nguồn nước dưới đất được khai thác để cấp nước cho nhiều mục đích khác nhau, trong đó chủ yếu cấp nước sinh hoạt (đô thị, nông thôn), sản xuất, ngoài ra còn khai thác để phục vụ cho một số mục đích khác (tưới cà phê, cây công nghiệp ở Tây Nguyên; nuôi trồng thủy sản, nuôi tôm trên cát ở ven biển miền Trung, bán đảo Cà Mau,…). PV:Thưa ông, có ý kiến cho rằng, nguyên nhân khiến nguồn nước ngầm cạn kiệt là do việc khai thác còn tùy tiện, tràn lan. Vậy, để ứng phó với suy giảm nguồn nước ngầm, Bộ TN&MT đã có những giải pháp như thế nào, thưa ông? Phó Cục trưởng Nguyễn Minh Khuyến: Để giải quyết những thách thức và bất cập nêu trên, trong thời gian qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tham mưu trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền hệ thống các văn bản pháp luật khá đầy đủ liên quan đến công tác bảo vệ nước dưới đất. Ngay từ khi có Luật tài nguyên nước năm 1998 thì việc bảo vệ nước dưới đất đã được chú trọng, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Quyết định số 15/2008/QĐ-BTNMT quy định bảo vệ tài nguyên nước dưới đất; Quyết định số 14/2007/QĐ-BTNMT quy định về việc xử lý, trám lấp các giếng khoan không sử dụng. Khi Luật tài nguyên nước năm 2012 được ban hành và có hiệu thực thì trên cơ sở các nội dung Luật tài nguyên nước năm 2012 giao, Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành các Thông tư có liên quan trong việc bảo vệ nước dưới đất gồm: Thông tư số 24/2016/TT-BTNMT quy định việc xác định và công bố vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt; Thông tư số 47/2017/TT-BTNMT quy định về giám sát khai thác, sử dụng tài nguyên nước; Thông tư số 72/2017/TT-BTNMT quy định về xử lý, trám lấp giếng khoan không sử dụng; Thông tư số 75/2017/TT-BTNMT quy định bảo vệ nước dưới đất trong các hoạt động khoan, đào, thăm dò, khai thác nước dưới đất; Thông tư số 27/2014/TT-BTNMT, trong đó quy định Sở Tài nguyên và Môi trường điều giá, xác định, lập Danh mục khu vực phải đăng ký khai thác nước dưới đất trên địa bàn để quản lý các công trình thuộc đối tượng không phải có giấy phép, nhưng phải đăng ký. Đặc biệt, để triển khai hiệu quả, thống nhất Nghị định số 167/2018/NĐ-CP ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Chính phủ quy định việc hạn chế khai thác nước dưới đất, Cục Quản lý tài nguyên nước đã tham mưu trình Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành các văn bản đôn đốc các địa phương khẩn trương triển khai thực hiện quy định của Nghị định số 167/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định việc hạn chế khai thác nước dưới đất; Tham mưu, có ý kiến đối với việc khoanh định các vùng hạn chế khai thác nước dưới đất, khu vực phải đăng ký khai thác nước dưới đất tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đảm bảo đúng trình tự, tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Tuân thủ quy định quy định về mực nước động lớn nhất cho phép theo quy định của Nghị định số 167/2018/NĐ-CP trong việc thẩm định, tham mưu cấp phép khai thác, sử dụng nước dưới đất.
Để tăng cường quản lý, bảo vệ nguồn nước dưới đất, ứng phó với suy giảm chất lượng nước ngầm, Bộ TN&MT đã và đang thực hiện một số giải pháp như sau:
- Tập trung vào việc sửa đổi Luật tài nguyên nước, trong đó chú trọng việc sửa đổi, bổ sung các chính sách nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhằm bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, bền vững tài nguyên nước dưới đất;
- Tiếp tục đẩy mạnh việc triển khai thực hiện các văn bản pháp luật liên quan đến bảo vệ tài nguyên nước dưới đất tại các địa phương, đặc biệt là việc ban hành Danh mục vùng hạn chế khai thác nước dưới đất, thực hiện các biện pháp hạn chế khai thác nước dưới đất phù hợp; xử lý, trám lấp các giếng hỏng, không sử dụng nhằm hạn chế ô nhiễm nước dưới đất;
- Tổ chức thực hiện quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước quốc gia trong đó quy hoạch khai thác hợp lý, điều chỉnh phương án khai thác nước dưới đất hiện tại cho phù hợp, đảm bảo tổng lượng khai thác không vượt quá trữ lượng của nước dưới đất, không vượt ngưỡng giới hạn khai thác an toàn;
- Tổ chức thực hiện đề án tổng kiểm kê tài nguyên nước quốc gia đã được Chính phủ phê duyệt;
- Đề xuất từng bước đầu tư nâng cấp, hoàn thiện việc xây dựng, vận hành hệ thống giám sát hoạt động khai thác nước dưới đất để theo dõi, phát hiện các công trình bị suy giảm mực nước quá mức và có phương án xử lý kịp thời; nâng cấp, hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu về nước dưới đất;
- Ngoài ra, tiến hành nghiên cứu áp dụng các giải pháp để tăng cường khả năng trữ nước ngọt, giảm dần việc khai thác nước dưới đất; nghiên cứu áp dụng các giải pháp lưu giữ nước mưa ở các khu đô thị, dân cư tập trung nhằm giảm bớt tình trạng ngập úng, đồng thời bổ sung nhân tạo cho nước dưới đất. PV:Trân trọng cảm ơn ông!