75 năm ngành KTTV đồng hành, kiến tạo phục vụ vì sự phát triển bền vững đất nước

Ngày 17/12/2019, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định lấy ngày 3/10 hàng năm là Ngày truyền thống Ngành khí tượng thủy văn (KTTV) Việt Nam. Đây là dấu mốc quan trọng ghi nhận những nỗ lực của ngành đóng góp vào sự phát triển bền vững đất nước. 75 năm qua, ngành KTTV đã không ngừng vươn lên, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giao, đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, góp phần đắc lực trong công tác phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội đảm bảo quốc phòng an ninh.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng dự lễ kỷ niệm 40 năm Ngành KTTV
Thủ tướng Phạm Văn Đồng dự lễ kỷ niệm 40 năm Ngành KTTV

Những thành tựu nổi bật

Trao đổi với báo chí, GS.TS Trần Hồng Thái, Tổng cục trưởng Tổng cục Khí tượng thủy văn cho biết: Trong suốt chặng đường lịch sử 75 năm ngành KTTV đã luôn đồng hành, kiến tạo phục vụ vì sự phát triển bền vững của Đất nước. Ngành đã vượt qua mọi khó khăn, thách thức, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giám sát mọi diễn biến về thời tiết, thủy văn trên cả nước; dự báo và cảnh báo thời tiết thủy văn hàng ngày, đặc biệt là các hiện tượng thời tiết, thủy văn, hải văn nguy hiểm trên đất liền và trên biển nhằm phục vụ phòng tránh và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai có nguồn gốc KTTV, cung cấp thông tin và nâng cao nhận thức về KTTV đối với cộng đồng xã hội góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội đảm bảo quốc phòng an ninh cho Đất nước... và đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận.

Điển hình như về công tác xây dựng văn bản pháp luật KTTV: Ngành đã được cấp có thẩm quyền, ban hành theo thẩm quyền 155 văn bản quy phạm pháp luật và 25 văn bản có chứa đựng một phần các nội dung quy phạm pháp luật về lĩnh vực KTTV. Trong đó giai đoạn 2010 – 2020 ban hành 48 văn bản quy phạm pháp luật. Các văn bản này đã góp phần đưa chính sách pháp luật KTTV vào cuộc sống, phục vụ công tác phòng chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu.

Về phát triển mạng lưới trạm đo đạc, quan trắc KTTV: Từ một mạng lưới do thực dân Pháp để lại ở miền Bắc (15 trạm khí tượng bề mặt, 6 trạm hải văn, 41 trạm thủy văn và 27 điểm đo mưa, trong đó nhiều trạm đã ngừng quan trắc) và Ngụy quyền Sài Gòn để lại ở miền Nam (30 trạm khí tượng, khí hậu, 02 trạm thám không vô tuyến và một số trạm pilot, trạm thủy văn quan trắc định kỳ), đến nay mạng lưới quan trắc KTTV hiện có 1719 trạm/điểm đo trên toàn quốc; trong đó giai đoạn 2010 - 2020, mạng lưới trạm đã đầu tư phát triển 735 trạm/công trình/phương tiện đo KTTV. Tỷ lệ các trạm KTTV đã được tự động hóa khoảng gần 40%; đặc biệt các trạm đo mưa, bức xạ được đầu tư mới đã tự động 100%; trạm đo mực nước tự động chiếm 53% tổng số trạm. Chất lượng số liệu đo đạc, quan trắc KTTV luôn đạt và vượt chỉ tiêu đề ra; đã nghiên cứu phát triển thiết bị đo mưa tự động và triển khai áp dụng thử nghiệm trên mạng lưới trạm KTTV (Đài KTTV khu vực Nam Bộ) nhằm tạo sự chủ động trong thay thế linh kiện, bảo đảm mạng lưới trạm hoạt động thông suốt và tiết kiệm kinh phí do không phải nhập khẩu thiết bị từ nước ngoài.
 

7 10 2020 2
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại buổi làm việc về công tác phòng chống bão số 3 năm 2016 tại Trung tâm KTTV Quốc gia

Về công tác dự báo KTTV: Hệ thống dự báo, cảnh báo KTTV không ngừng được đổi mới, phát triển. Một số mô hình khu vực phân giải cao như mô hình HRM của Đức, WRF của Mỹ, ECMWF của Châu Âu… đã và đang được vận hành hiệu quả tại Tổng cục; đã tiến hành dự báo tới khoảng 600 các địa điểm cụ thể như thị trấn, thị xã, thành phố, đặc biệt là thời tiết biển khu vực quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước và phục vụ hiệu quả việc phát triển kinh tế biển…Nhiều công nghệ mới đã được nghiên cứu đưa vào ứng dụng trong tác nghiệp góp phần nâng cao chất lượng dự báo KTTV.

Trong giai đoạn 2010 - 2020, đã theo dõi và dự báo sát, kịp thời 272 đợt không khí lạnh; 43 áp thấp nhiệt đới; 90 cơn bão; 126 trận lũ; 170 đợt nắng nóng; 228 đợt mưa lớn diện rộng, đặc biệt năm 2018 công tác dự báo hiệu quả đã góp phần giảm được khoảng 2/3 thiệt hại do thiên tai gây ra so với năm 2017 tương ứng với 40.000 tỷ đồng (nguồn từ Tổng cục Phòng chống thiên tai, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn). Năm 2019, thiệt hại do thiên tai gây ra đã được giảm thiểu tối đa, đặc biệt là về người; công tác dự báo, cảnh báo thiên tai đã được Thủ tướng Chính phủ biểu dương, ghi nhận tại Hội nghị toàn quốc về công tác phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn năm 2020. Chất lượng các bản tin dự báo luôn đạt và vượt mức chỉ tiêu đề ra.

Trong giai đoạn 2010-2020, nhiều công nghệ, thiết bị mới đã được đầu tư, nghiên cứu đưa vào ứng dụng trong tác nghiệp góp phần nâng cao chất lượng công tác dự báo KTTV, như: xây dựng được bộ công cụ, chương trình tính toán chỉ số SPI phục vụ giám sát hạn hán khí tượng hỗ trợ đưa ra các bản tin thông báo về phạm vi, cường độ, diễn biến hạn hán trên phạm vi toàn quốc; triển khai trong nghiệp vụ các hệ thống mô hình dự báo số trị quy mô khu vực để tăng cường khả năng dự báo định lượng mang tính cực trị như mưa lớn, gió mạnh trong bão; thu thập đồng bộ thống nhất toàn bộ các hệ thống dự báo tất định và tổ hợp từ các trung tâm toàn cầu (Mỹ, Nhật, Châu Âu) phục vụ dự báo khí tượng cho khu vực Việt Nam; đưa công cụ hỗ trợ phân tích và hỗ trợ dự báo thời tiết, dự báo bão, cụ thể là Hệ thống cơ sở dữ liệu KTTV và công cụ hỗ trợ (MHDARS) tác nghiệp dự báo khí tượng, dự báo bão, nghiên cứu khoa học; Ứng dụng và khai thác các sản phẩm dự báo thời tiết số chi tiết định lượng làm tiền đề cho việc thiết lập phát triển và hoàn thiện cơ sở dữ liệu KTTV toàn ngành, các công hỗ trợ dự báo khí tượng và dự báo bão trong giai đoạn tới; đã ứng dụng hệ thống Định hướng cảnh báo lũ quét của Trung tâm Nghiên cứu Thủy văn Hoa Kỳ do Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO) hỗ trợ trong cảnh báo khả năng xảy ra lũ quét…; và đã tính toán lũ ảnh hưởng bởi sự cố vỡ đập ở Lào năm 2018 đến dòng chính sông Mê Công tại Tân Châu và Châu Đốc; nhận định tình hình hạn hán, xâm nhập mặn sớm cho năm 2019…

Về công tác thông tin và dữ liệu KTTV: Hệ thống thông tin KTTV hiện nay đã được đầu tư hiện đại và khá đồng bộ; hệ thống kênh thông tin quốc tế (GTS và WIS); mạng riêng ảo luôn đảm bảo sự hoạt động ổn định, thông suốt trong mọi tình huống; thực hiện phát báo quốc tế số liệu KTTV thời gian thực qua hệ thống viễn thông toàn cầu đảm bảo đúng quy định của Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO). Trong giai đoạn 2010-2020, nhiều công nghệ, thiết bị mới đã được đầu tư, nghiên cứu đưa vào ứng dụng trong tác nghiệp góp phần nâng cao chất lượng công tác thông tin và dữ liệu KTTV, như: xây dựng được một trung tâm dữ liệu (Data center) đạt gần tới tiêu chuẩn quốc tế Tier 3 đảm bảo hoạt động ổn định hạ tầng công nghệ thông tin bao gồm mạng máy tính, các máy chủ nghiệp vụ, hệ thống tính toán hiệu năng cao HPC, cơ sở dữ liệu Oracle và ArcGis server, các phần mềm nghiệp vụ xử lý, lưu trữ và chia sẻ toàn bộ số liệu KTTV trong nước và quốc tế; xây dựng được hệ thống hội thảo trực tuyến từ trung ương đến 9 Đài KTTV khu vực và 54 Đài KTTV tỉnh: Đảm bảo công tác hội thảo trực tuyến nghiệp vụ dự báo, cảnh báo KTTV thông suốt đến các Đài KTTV khu vực và tỉnh, nhất là hội thảo khi có thiên tai KTTV xảy ra như bão, lũ. Hệ thống đã mang lại hiệu quả rất tốt trong thời gian xảy ra dịch bệnh COVID-19, đảm bảo các hoạt động nghiệp vụ KTTV diễn ra bình thường ngay cả khi thực hiện giãn cách xã hội; phát triển và đang hình thành một mô hình hoạt động nghiệp vụ KTTV tập trung, thống nhất trong toàn hệ thống: toàn bộ dữ liệu KTTV trong và ngoài nước được tích hợp, tổ chức xử lý, lưu trữ, khai thác và cung cấp theo hướng tập trung, đồng bộ (dữ liệu được tập trung tại Trung tâm dữ liệu ngành KTTV); các công tác nghiệp vụ dự báo, cảnh báo KTTV đều sử dụng dữ liệu tại Trung tâm dữ liệu; dữ liệu được chia sẻ đến các đơn vị cấp trên phục vụ công tác điều hành, chỉ đạo về phòng chống thiên tai như Tổng cục phòng chống thiên tai, Văn phòng Ban chỉ huy quốc gia phòng chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn.

Về công tác nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế KTTV: Trong suốt 75 năm qua, công tác nghiên cứu khoa học của Ngành KTTV luôn phát triển mạnh mẽ, với tổng số khoảng 500 đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước và cấp Ngành đã được nghiệm thu đưa vào ứng dụng trong mọi lĩnh vực của Ngành và đời sống xã hội; Trong giai đoạn 2010-2020 có 68 đề tài khoa học cấp bộ, cấp nhà nước được triển khai nghiên cứu, đưa vào ứng dụng.

Những năm trước đây, Ngành KTTV chỉ mới quan hệ hợp tác song phương với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, mà chủ yếu là Liên Xô, Trung Quốc thì hiện nay, Việt Nam có quan hệ với nhiều tổ chức, các nước trên thế giới và khu vực trong lĩnh vực KTTV, như: Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO), UNDP, UNEP, UNESCO, ESCAP, APCC, Uỷ ban Bão, Tiểu ban Khí tượng và Vật lý địa cầu ASEAN, Trung tâm phòng tránh thiên tai Châu Á, Ủy hội sông Mê Công; Cơ quan Khí tượng Australia, Nhật Bản, Ý, Phần Lan, Hà Lan, Hàn Quốc, Vương quốc Anh, Lào, Campuchia.... Trong giai đoạn 2010-2020 đã có 27 dự án đã và đang triển khai góp phần tích cực vào hiện đại hóa công nghệ, thiết bị cũng như phát triển nguồn nhân lực của Ngành.

Về công tác phát triển nhân lực KTTV: Từ khi mới thành lập, với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của Ngành KTTV ban đầu chỉ có vài kỹ sư, vài chục kỹ thuật viên trung, sơ cấp. Đến nay, với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và Bộ Tài nguyên và Môi trường, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của Ngành đã được đầu tư phát triển, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Trong 75 năm qua, các thế hệ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động của ngành KTTV Việt Nam luôn phát huy tinh thần yêu nước cao độ, thi đua thực hiện tốt nhiệm vụ Đảng, Nhà nước, Nhân dân giao phó, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, 20 cán bộ của ngành đã anh dũng hi sinh trong khi làm nhiệm vụ; để có những trang số liệu chúng ta đang khai thác hôm nay đã phải trả giá bằng máu của các quan trắc viên KTTV và ngay trong thời bình Ngành vẫn có cán bộ hy sinh trong khi làm nhiệm vụ.

Ghi nhận những thành tích xuất sắc của toàn thể đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành KTTV đã đạt được trong 75 năm qua, Đảng, Nhà nước, Chính phủ và bạn bè quốc tế trao tặng cho ngành nhiều phần thưởng cao quý, như: Huân chương Lao động hạng Ba năm 1962 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa; Huân chương Hồ Chí Minh vào năm 1995 nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập ngành KTTV; Huân chương độc lập hạng Nhất vào năm 2002 cho cho cán bộ, công chức, lao động Mạng lưới KTTV.

Tổng cục KTTV được đón nhận Huân chương Lao động hạng Hai của Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào năm 2008; Huân chương Lao động hạng Ba năm 2020; Cờ thi đua của Chính phủ các năm: 2010; 2015; 2018.

Viện Khoa học KTTV và Biến đổi khí hậu được đón nhận Huân chương Lao động hạng Ba năm 1997; Huân chương Lao động hạng Nhì năm 2007; Huân chương Lao động hạng Nhất năm 2012; Cờ thi đua của Chính phủ các năm: 2016, 2017.

Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội đón nhận Huân chương Lao động hạng nhì các năm: 2003, 2005, 2015; Huân chương Lao động hạng Nhất năm 2010; Huân chương Hữu nghị của Nhà nước Cộng hòa dân chủ Nhân dân Lào năm 2012; Cờ thi đua Chính phủ năm 2018;

Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh được đón nhận Huân chương Lao động Hạng 3 các năm: 1998, 2004; Huân chương Lao động Hạng nhì các năm: 2002, 2012.
 

TÓM TẮT LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN NGÀNH KTTV

Giai đoạn 1945 - 1975

Ngày 03 tháng 10 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 41 đưa Sở Thiên văn và Đài Thiên văn Phủ Liễn về trực thuộc Bộ Giao thông Công chính với tên gọi Sở Khí tượng (ngày 17/12/2019 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1821/QĐ-TTg lấy ngày 03 tháng 10 hằng năm là “Ngày truyền thống ngành Khí tượng thủy văn Việt Nam”. Ngày 05 tháng 6 năm 1956, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 916/TTg thành lập Nha Khí tượng Thủy văn (KTTV), kể từ thời điểm này ngành KTTV được chính thức thành lập trực thuộc Chính phủ.

Giai đoạn từ 1975 – đến nay

- Ngày 05 tháng 11 năm 1976, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 215/CP thành lập Tổng cục KTTV (trên cơ sở hợp nhất Nha Khí tượng và Cục Thủy văn). Ngày 11 tháng 11 năm 2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 91/2002/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức bộ máy của Bộ Tài nguyên và Môi trường (TNMT) , Bộ thành lập trên cơ sở hợp nhất Tổng cục KTTV (lúc này Tổng cục được tổ chức thành một số đơn vị trực thuộc Bộ, nòng cốt là Trung tâm KTTV quốc gia), Tổng cục Địa chính và một số lĩnh vực của các bộ, ngành khác.

- Ngày 11 tháng 11 năm 2002 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 91/2002/NĐ-CP của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường, trong đó, Tổng cục KTTV đã được sáp nhập và chia tách thành một số đơn vị trực thuộc Bộ đó là: Vụ KTTV, Trung tâm KTTV quốc gia (nay là Tổng cục KTTV), Viện Khoa học KTTV và Môi trường (nay là Viện Khoa học KTTV và Biến đổi khí hậu), Trường Cao đẳng KTTV Hà Nội (nay là Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội), Trường Cao đẳng KTTV Thành phố Hồ Chí Minh (nay là Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh), Công ty Vật tư KTTV (nay là Công ty cổ phần thiết bị KTTV và Môi trường Việt Nam).

- Ngày 04 tháng 04 năm 2017, Chính phủ ban hành Nghị định số 36/2017/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức bộ máy của Bộ TNMT, theo đó Tổng cục KTTV được thành lập trên cơ sở Trung tâm KTTV quốc gia và bộ phận quản lý nhà nước về KTTV của Cục KTTV và Biến đổi khí hậu; cơ cấu tổ chức của Tổng cục được quản lý thống nhất theo ngành dọc từ trung ương đến địa phương, với 23 đơn vị trực thuộc; tổng số công chức, viên chức và lao động hiện có 2926 người.

Tăng cường quản lý nhà nước hoạt động khí tượng thủy văn, phục vụ hiệu lực, hiệu quả sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội bền vững

GS.TS Trần Hồng Thái chia sẻ trong hành trình đó, Ngành KTTV đã gặp phải những khó khăn, thách thức. Ngay sau khi thành lập Nước, ngày 03 tháng 10 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 41 đưa Sở Thiên văn và Đài Thiên văn Phủ Liễn về trực thuộc Bộ Giao thông Công chính (sau đổi thành Nha Khí tượng - Tổ chức tiền thân của Tổng cục KTTV ngày nay). Từ đó đến nay, trải qua 75 năm xây dựng và phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Ngành KTTV đã không ngừng vươn lên đóng góp vào sự nghiệp cách mạng chung của cả nước, phục vụ ngày càng tốt hơn, có hiệu quả hơn đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Mặc dù vậy, ngành KTTV gặp khó khi thực hiện công tác điều tra cơ bản, dự báo, thông tin tư liệu KTTV, quan trắc môi trường không khí và môi trường nước trong điều kiện cơ sở vật chất, hệ thống mạng lưới kỹ thuật chưa đồng bộ, mạng lưới trạm quan trắc còn thưa nên nguồn số liệu đầu vào phục vụ công tác dự báo vẫn còn khó khăn. Trong khi đó, mô hình dự báo chuyên dùng cho Việt Nam đang trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện do đó việc cải tiến và đa dạng hóa bản tin, chuẩn hóa mẫu bản tin đã được thực hiện nhưng vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của cộng đồng.

Hơn nữa, nhiều vấn đề khoa học công nghệ về dự báo trong nước và trên thế giới chưa thực hiện được như: dự báo định lượng mưa lớn trong trường hợp cực đoan phạm vi hẹp; cảnh báo lũ quét, sạt lở đất mới chỉ đạt được ở mức cảnh báo có nguy cơ trên một khu vực rộng, chưa cảnh báo được ở một vị trí cụ thể; việc thu nhận số liệu hồ chứa từ các chủ hồ phục vụ công tác dự báo, cảnh báo thủy văn vùng hạ du hồ còn nhiều bất cập đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng dự báo, cảnh báo KTTV.

Không chùn bước trước khó khăn, Ngành đã Ban hành Khẩu hiệu hành động của ngành Khí tượng Thuỷ văn nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mỗi cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong thực hiện nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu phát triển ngành Khí tượng Thủy văn trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ý nghĩa của Khẩu hiệu là Thống nhất - Chính xác - Liên tục - Tin cậy - Kịp thời nhằm thể hiện cam kết của ngành Khí tượng Thủy văn trước yêu cầu của Đảng, Nhà nước, cộng đồng xã hội và từng người dân về việc tăng cường quản lý nhà nước hoạt động khí tượng thủy văn, phục vụ hiệu lực, hiệu quả sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội bền vững, góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia và phòng, chống thiên tai.
 

7 10 2020 3

Tạo ra bước đột phá làm, chủ công nghệ phục vụ phòng chống thiên tai và phát triển bền vững

Với những chiến lược, kế hoạch hành động quyết liệt, bám sát thực tiễn đã từng bước tạo ra những đột phá trong toàn ngành. Trong đó, mạng lưới quan trắc được mở rộng, đổi mới công nghệ dự báo KTTV, làm chủ công nghệ phục vụ phòng chống thiên tai và phát triển bền vững. Thông tin, dữ liệu khí tượng thủy văn đã thực sự là cơ sở dữ liệu “đầu vào” cho hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế, đời sống xã hội.

Cụ thể, từ mạng lưới trạm KTTV thưa thớt, xuống cấp, đến nay đã có 579 trạm, điểm đo, trong đó có 233 trạm thủy văn, 176 trạm khí tượng, 17 trạm Hải văn, 155 trạm/điểm đo môi trường không khí và nước, hàng trăm điểm đo mưa nhân dân; mạng lưới trạm Khí tượng cao không với 6 trạm thám không vô tuyến, 8 trạm đo gió trên cao bằng máy kinh vĩ quang học, 3 trạm đo tổng lượng Ôzôn - Bức xạ cực tím và 7 trạm Rada thời tiết trải khắp mọi miền đất nước từ vùng biên giới, núi cao đến hải đảo xa. Hệ thống công trình đo đạc, nhà cửa của nhiều trạm đã được kiên cố hóa, máy móc, thiết bị lạc hậu được loại bỏ và đang tập trung hiện đại hóa công nghệ thiết bị chuyên ngành mới.

Đặc biệt, chất lượng các bản tin dự báo không ngừng được nâng cao, đã dự báo tương đối sát, kịp thời các cơn bão và các đợt áp thấp nhiệt đới (ATNĐ) hoạt động trên khu vực Biển Đông; cảnh báo trước 48-72h các đợt không khí lạnh (KKL), nhiều đợt rét đậm, rét hại; dự báo sát mực nước đỉnh lũ, mực nước kiệt trên các sông trong cả nước và xâm nhập mặn các cửa sông vùng ven biển.

Ngành đã tham mưu xây dựng và Thủ tướng Chính phủ phê duyệt các chiến lược, đề án, văn bản quy phạm pháp luật quan trọng như: Chiến lược phát triển ngành KTTV đến năm 2020; Đề án hiện đại hoá công nghệ dự báo và mạng lưới quan trắc KTTV, giai đoạn 2010-2012. Đặc biệt, ngày 23/11/2015, đã được Quốc hội khóa XIII thông qua Luật khí tượng thủy văn, có hiệu lực thi hành từ1/7/2016. Đến nay, ngành KTTV đã xây dựng được hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện quản lý nhà nước về công tác KTTV.

Ngoài ra, công tác nghiên cứu khoa học có bước phát triển mạnh. Đáng chú ý là kết quả nghiên cứu dự báo bằng phương pháp số trị và ra các bản tin dự báo và thông báo về dự báo khí hậu, dự báo thời tiết, dự báo thủy văn và môi trường, cụ thể như: mô hình số trị dự báo thời tiết được áp dụng để dự báo bão, áp thấp nhiệt đới, mưa lớn và dự báo thời tiết hàng ngày; áp dụng các mô hình dự báo khí hậu khác nhau để ra các thông báo và dự báo khí hậu hàng tháng; xây dựng quy trình dự báo và vận hành công trình phòng chống lũ trong trường hợp khẩn cấp…

Tập trung các nguồn lực để phát triển Ngành đồng bộ theo hướng hiện đại hóa và tự động hóa

GS.TS Trần Hồng Thái cho biết, với vị trí quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, đặc biệt là trong công tác phòng, tránh và giảm nhẹ thiên tai, đầu tư cho Ngành KTTV cần đi trước một bước để cung cấp kịp thời, chính xác thông tin và luận cứ khoa học về KTTV cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Tiếp tục phát huy những thành tựu trong những năm qua, trong giai đoạn sắp tới, ngành KTTV sẽ tập trung các nguồn lực để phát triển ngành đồng bộ theo hướng hiện đại hoá và tự động hóa, nâng cao năng lực quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật KTTV trong phạm vi cả nước, nâng cao năng lực quan trắc, dự báo, cảnh báo KTTV, trọng tâm là dự báo, cảnh báo các thiên tai liên quan đến bão, lũ, lũ quét, sạt lở đất,… đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và phục vụ phòng tránh và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai được dự báo là ngày càng phức tạp, khó lường.

Với định hướng đó, ngành KTTV lấy việc đầu tư cho khoa học, công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực làm giải pháp chủ yếu để phát triển trên cơ sở kế thừa và phát huy tối đa nguồn lực hiện có; khai thác triệt để thành tựu khoa học, công nghệ trong nước, đồng thời ứng dụng chọn lọc những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới.

Đồng thời, tiếp tục củng cố và hoàn thiện hệ thống mạng lưới trạm quan trắc quốc gia, trong đó tập trung đầu tư phát triển hệ thống trạm quan trắc tự động nhằm bảo đảm thu thập đầy đủ và chính xác các số liệu, đáp ứng yêu cầu cảnh báo, dự báo KTTV, phục vụ phòng chống thiên tai, phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, khai thác tài nguyên và môi trường.

Và để thực hiện các mục tiêu đó, bên cạnh sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, ngành KTTV đặt mục tiêu đưa ra những chính sách kêu gọi sự tham gia của khối kinh tế tư nhân trong công tác khí tượng thủy văn. Từ đó, tạo ra thị trường dịch vụ khí tượng thủy văn, làm sao tiến tới mục tiêu quan trọng là xã hội hóa ngành KTTV.

BBT (Nguồn: Cổng TTĐT Bộ TN&MT)

 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
kt.jpg hc.jpg 2.jpg 3.jpg
 
thong diep phong covid 2023

Bien Dong

tham van DTM

HOC TAP LAM THEO

THONG TIN TUYEN TRUYEN

tthc tnmt

phan anh kien nghi

THIEN TAI

LICH TIEP CONG DAN

BANG GIA DAT

CONG THONG TIN

TCVN ISO 9001 2015
 
TIEP CAN THONG TIN
 
thu thap du lieu 2023
 
congpd
Liên kết site

 

Online
  • Đang truy cập342
  • Hôm nay86,183
  • Tháng hiện tại1,560,726
  • Tổng lượt truy cập19,138,383
Văn bản pháp luật mới cập nhật
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây